Chiến tranh Việt Nam - Trung Quốc, 1979 hay thường được gọi là Chiến tranh biên giới Việt - Trung năm 1979 là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nổ ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới trên bộ giữa hai nước.
Chiến tranh biên giới Việt - Trung bắt nguồn từ quan hệ căng thẳng
kéo dài giữa hai quốc gia, kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại
nặng nề về người và tài sản cho cả hai phía. Cuộc chiến kết thúc khi
Trung Quốc tuyên bố hoàn thành rút quân vào ngày 16 tháng 3 năm 1979,
sau khi chiếm được các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, và một số
thị trấn vùng biên. Mục tiêu của Trung Quốc buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia
không thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh
tế Việt Nam và quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại
biên giới còn tiếp diễn thêm 10 năm. Hơn 13 năm sau, quan hệ ngoại giao
Việt-Trung chính thức được bình thường hóa.
Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc - Liên Xô
Tuy được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam, các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện từ năm 1968. Hà Nội nhất định cùng lúc giữ mối quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc Kinh trong khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm giữa Hà Nội
và Bắc Kinh về cách tiến hành cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam trở nên
rõ rệt. Bắc Kinh muốn Hà Nội chỉ tiếp tục chiến tranh du kích có giới
hạn chống Hoa Kỳ, trong khi Hà Nội muốn tiến hành chiến tranh quy mô để
thống nhất đất nước của họ. Và hơn thế nữa, họ muốn trực tiếp đàm phán với Hoa Kỳ, không cần thông qua một nước nào làm trung gian.Sau sự kiện Tết Mậu Thân, Hà Nội bắt đầu đàm phán với Hoa Kỳ, trong khi đó Bắc Kinh phản đối.
Năm 1972, chuyến thăm của tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc được Việt Nam Dân chủ Cộng hoà xem là một sự phản bội.Từ năm 1973, Ban lãnh đạo Trung Quốc đã có chỉ thị: "Bề
ngoài ta đối xử tốt với họ (Việt Nam) như đối xử với đồng chí mình,
nhưng trên tinh thần phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta". Năm 1975, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Lê Duẩ
thẳng thừng từ chối đưa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào liên minh chống
Liên Xô của Trung Quốc, phủ nhận quan niệm của Trung Quốc rằng chủ nghĩa
bành trướng của Liên Xô là mối đe dọa đối với các nước cộng sản châu Á.
Ông rút ngắn thời gian thăm Trung Quốc và rời nước này mà không tổ chức
tiệc đáp lễ Trung Quốc theo truyền thống, cũng không ký thỏa thuận
chung, không đưa ra bất cứ một phát biểu hoặc thông cáo nào về cuộc
viếng thăm. Cũng trong chuyến thăm này, Trung Quốc thông báo rằng sẽ không giữ mức viện trợ như đã hứa năm 1973. Bắc Kinh bắt đầu nói về một Việt Nam "hắc tâm", "vô ơn", "ngạo ngược".Viện trợ của Trung Quốc sau đó giảm mạnh và đến năm 1978 thì cắt toàn
bộ. Điều kiện đầu tiên Trung Quốc đặt ra cho Việt Nam để nối lại viện
trợ là phải từ chối tất cả các khoản viện trợ của Liên Xô.
Khi Việt Nam ngày càng có quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô, Trung Quốc
thấy mình bị đe dọa từ hai phía. Đồng thời, Việt Nam cũng đang cố gắng
xây dựng mối quan hệ đặc biệt chặt chẽ giữa 3 nước Đông Dương trong đó
Việt Nam giữ vị thế đứng đầu. Cùng với thực tế rằng nước Việt Nam thống
nhất đã trở thành một sức mạnh quan trọng trong vùng, làm giảm ảnh hưởng
của Trung Quốc. Những điều này làm cho Trung Quốc lo ngại về một "tiểu
bá quyền" Việt Nam và việc bị Liên Xô bao vây từ phía bắc. Một nước Campuchia chống Việt
Nam đã trở thành một đồng minh quan trọng đối với Trung Quốc.
Ngày 1/11/1977, tờ Nhân dân Nhật báo,
cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản Trung Quốc, trong một bài xã luận
đã gọi Liên Xô như một kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc, đồng thời
coi Mỹ như là một đồng minh. Ngày 30/7/1977, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Hoàng Hoa phát biểu: "Chúng
tôi ủng hộ lập trường chống đế quốc xét lại Liên Xô của Campuchia... và
sẽ không thể ngồi nhìn bất cứ sự can thiệp nào đối với chủ quyền
Campuchia hoặc thèm khát lãnh thổ nào bởi đế quốc xã hội. Chúng tôi sẽ
ủng hộ Campuchia trong cuộc đấu tranh và có các hành động nhằm bảo vệ
lãnh thổ, chủ quyền quốc gia Campuchia bằng mọi sự giúp đỡ có thể".
Trung Quốc đòi quân đội Liên Xô phải hoàn toàn triệt thoái khỏi Mông
Cổ, đồng thời giảm số lượng các lực lượng vũ trang trên suốt tuyến biên
giới Trung-Xô. Sau đó, vào đầu tháng 4/1978, Tổng bí thư Đảng Cộng sản
Liên Xô Leonid Brezhnev
khi đi thăm Siberia và Hạm đội Thái Bình Dương, tuyên bố rằng sẽ triển
khai trên tuyến biên giới các hệ thống vũ khí mới, ngoài những hệ thống
vũ khí trang bị hiện đại đã có sẵn trên biên giới Trung-Xô. Ngày
12/4/1978, chính phủ Mông Cổ
cũng công khai bác bỏ yêu cầu của Trung Quốc, tuyên bố rằng lực lượng
quân đội Liên Xô được tăng cường và triển khai dọc biên giới Mông Cổ -
Trung Quốc là theo yêu cầu của Mông Cổ nhằm đáp trả việc tăng cường lực
lượng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
trên biên giới. Ngày 26/4/1978. Bộ Ngoại giao Trung Quốc yêu cầu bổ
sung thêm vào điều kiện công nhận sự tồn tại các vấn đề tranh chấp khu
vực trên biên giới Trung-Xô.
Với lý do cần kinh phí để hỗ trợ Hoa kiều hồi hương, tháng 5 năm
1978, lần đầu tiên Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ (72 trong
số 111 công trình viện trợ) không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút bớt
chuyên gia về nước. Ngày 29/6/1978 Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước. Ngày 3/11/1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác
với Liên Xô. Ngoài các điều khoản về hợp tác thương mại và văn hóa,
hiệp ước có những thoả thuận về quốc phòng như một hiệp ước về "phòng
thủ chung" có nghĩa là "tham khảo ý kiến chung và hành động hiệu quả
để đảm bảo an ninh quốc phòng của cả hai nước". Ngày 22 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc ngừng tuyến xe lửa liên vận tới Việt Nam. Đầu tháng 1 năm 1979, đường bay Bắc Kinh - Hà Nội cũng bị cắt.
Theo các nguồn tin chính thức của Mỹ vào tháng 8/1978, Việt Nam có
4.000 cố vấn và chuyên gia Liên Xô và đến giữa năm 1979 con số đã tăng
lên đến 5.000-8.000. Tháng 9/1978, Liên Xô bắt đầu cung cấp vũ khí mới
(máy bay, tên lửa phòng không, xe tăng và vũ khí, đạn dược, cơ sở vật
chất phục vụ chiến tranh) cho Việt Nam bằng đường hàng không và đường
biển.
Liên bang Xô Viết cũng tăng cường áp lực lên Trung Quốc với mục đích
đạt được sự kéo dài Hiệp định Xô – Trung có giới hạn 30 năm về quan hệ
Liên minh, Hợp tác hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau, được ký vào ngày
14/2/1950 (hết hạn vào ngày 15/2/1979).
Ngày 16/2/1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố khả năng một cuộc chiến tranh
tổng lực chống Liên Xô. Dọc tuyến biên giới Xô - Trung đã tập trung
khoảng 1,5 triệu quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trên tổng số quân thường trực chiến đấu là 3,6 triệu người, phía Liên Xô đã triển khai hơn 40 sư đoàn Hồng quân.
Tháng 5/1979 trên biên giới Liên Xô - Trung Quốc xảy ra một xung đột
quân sự nghiêm trọng có sự tham gia của cả máy bay trực thăng chiến đấu.
Cũng trong tháng 5/1979, các tàu chiến Liên Xô bắt đầu đi vào hải phận
Cam Ranh. Ít lâu sau, các máy bay của Hạm đội Thái Bình Dương bắt đầu hạ
cánh xuống Cam Ranh.
Ngoài ra, theo một số nhà nghiên cứu quân sự Tây phương, về mặt chiến
lược, Trung Quốc thử nghiệm một cuộc chiến tranh biên giới có giới hạn
với Việt Nam để thăm dò khả năng tương trợ của Liên Xô, sau khi Việt Nam
gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV), và ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô (1978)
có giá trị trong 25 năm, trong đó có điều khoản về tương trợ quân sự.
Nếu thỏa ước này được tuân thủ nghiêm ngặt, theo nhận định của Quân ủy
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc,
nó sẽ là hiểm họa quốc phòng lớn vì đặt Trung Quốc vào tình thế lưỡng
đầu thọ địch khi xảy ra chiến tranh với Việt Nam hoặc Liên Xô.
Về phía Liên Xô, nguy cơ bị cô lập về ngoại giao sau khi quan hệ
Trung Quốc - Hoa Kỳ trở nên nồng ấm khiến Moskva buộc phải tìm cách tăng
cường quan hệ đối với Việt Nam. Viện trợ kinh tế của Liên Xô cho Việt
Nam tăng đều từ năm 1975 đến 1979
từ 450 triệu USD lên 1,1 tỷ USD, viện trợ quân sự cũng tăng mạnh do sự
kiện xung đột Việt Nam Campuchia (từ 125 triệu USD năm 1977 lên 600
triệu năm 1978 và 890 triệu năm 1979).
Quan hệ Việt Nam - Campuchia - Trung Quốc
Cùng lúc căng thẳng Việt Nam-Trung Quốc lên cao thì ở biên giới phía
tây nam của Việt Nam, chính quyền Khmer Đỏ, với sự bảo trợ của Trung
Quốc, cũng bắt đầu leo thang hoạt động quân sự xâm lấn miền Nam Việt
Nam. Các xung đột lẻ tẻ ở khu vực này đã nhanh chóng bùng nổ thành Chiến tranh biên giới Việt Nam - Campuchia với hệ quả là Việt Nam đưa quân vào Campuchia lật đổ chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ.Đứng trước tình hình đó, Trung Quốc quyết định tấn công xâm lược Việt Nam với lý do "dạy cho Việt Nam một bài học" (lời Đặng Tiểu Bình) nhưng mục đích chính là phân chia lực lượng quân đội của Việt Nam để giúp chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ
Quan hệ Việt Nam - Campuchia ngày càng đi xuống, thể hiện ngay từ tháng 5 năm 1975 khi Khmer Đỏ cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu
và bắt đi hàng trăm dân thường, lên cao trào vào những năm 1977-1978
khi Khmer Đỏ nhiều lần đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam tàn sát hàng chục
nghìn dân thường. Trong suốt thời gian đó và cả về sau, Trung Quốc luôn
là nước viện trợ đắc lực cho Khmer Đỏ về vũ khí, khí tài cũng như cố vấn
quân sự. Chính phủ Việt Nam nhiều lần đề nghị Trung Quốc giúp đỡ dàn
xếp quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia, song Trung Quốc im lặng. Bên cạnh các nỗ lực ngoại giao không thành nhằm xoa dịu căng thẳng với Trung Quốc và Campuchia,Việt Nam tin rằng Trung Quốc đang sử dụng Campuchia để tấn công Việt Nam.
Tuyên bố chủ quyền của nước Việt Nam thống nhất năm 1975 đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa;
cách ứng xử của Việt Nam đối với người Việt gốc Hoa; và cố gắng của
Việt Nam trong việc xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa ba nước Đông Dương được Bắc Kinh xem là nỗ lực nhằm thống trị Đông Dương và là ví dụ về sự hỗn xược của Việt Nam. Từ tháng 8 năm 1975, Trung Quốc bắt đầu giảm mạnh viện trợ kinh tế cho Việt Nam, cắt hoàn toàn vào tháng 6 năm 1978. Cũng năm 1975, Trung Quốc cho Campuchia vay không lấy lãi 1 tỷ USD và kí kết một hiệp ước quân sự bí mật với chính quyền Khmer Đỏ vào tháng 2 năm 1976.
Tháng 2 năm 1976, trong dịp Vương Thượng Vĩnh, Phó Tổng tham mưu trưởng
quân đội Trung Quốc đến Phnôm Pênh đàm phán với Son Sen, Trung Quốc đã
đồng ý viện trợ quân sự cho Campuchia 226 triệu nhân dân tệ (tương đương
1,5 tỷ USD) trong ba năm (1976-1978). Chính sách ngoại giao của Trung Quốc với khu vực Đông Nam Á cũng được thay đổi theo hướng tăng cường quan hệ với khối ASEAN
vốn ở thế đối đầu với các chính quyền cộng sản Đông Dương đồng thời cắt
bỏ viện trợ của nước này đối với các đảng cộng sản ở đông nam Á. Tháng 2 năm 1977, Trung Quốc nói với Việt Nam rằng, không sẵn sàng cung
cấp viện trợ cho Việt Nam trong công cuộc tái thiết đất nước sau chiến
tranh.
Từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1977, Polpot có chuyến thăm tới Trung Quốc, nhằm thắt chặt quan hệ đồng minh giữa hai nước.
Ngày 20/11/1977, Lê Duẩn sang thăm Trung Quốc. Trong cuộc hội đàm
giữa Lê Duẩn và Hoa Quốc Phong, mặc dù hai bên đều tránh nói đến những
tranh chấp về Hoàng Sa, Trường Sa, song sự khác biệt về quan điểm đối
với việc nhìn nhận thế giới, chiến tranh và hòa bình bộc lộ ngày càng
rõ. Lê Duẩn bày tỏ quan điểm không tham gia vào cuộc tranh cãi Trung -
Xô thông qua việc "chân thành cảm ơn Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác về sự nhiệt tình, giúp đỡ to lớn đối với Việt Nam".
Lê Duẩn cũng đề nghị những nhà lãnh đạo Trung Quốc yêu cầu Campuchia
Dân chủ chấp nhận một giải pháp cho cuộc xung đột trên tuyến biên giới
Tây Nam, nhưng Trung Quốc không quan tâm. Cuối cùng, giống như chuyến
thăm Trung Quốc vào tháng 9 năm 1975, Lê Duẩn cũng đã ra về mà không mở
tiệc đáp lễ Trung Quốc.
Tháng 12 năm 1977, Phó Thủ tướng Trung Quốc Uông Đông Hưng tới thăm
Campuchia và đi thị sát những vùng gần biên giới Việt Nam. Trong chuyến
thăm này, Phó Thủ tướng Uông Đông Hưng tuyên bố: "Không một lực lượng
nào có thể đứng cản trở quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Campuchia,
hai nước sẽ là đồng chí với nhau mãi mãi".
Cuối năm 1977, các văn kiện của Quân khu Quảng Châu luôn nhấn mạnh tinh thần "phải
chuẩn bị các mặt để đánh Việt Nam", tuyên truyền: "Việt Nam là tay sai
của Liên Xô, có tham vọng xâm lược Campuchia, Lào, chiếm Đông Nam Á,
thực hiện bá quyền khu vực, phải đánh cho bọn xét lại Việt Nam, không
đánh là không thể được và phải đánh lớn. Việt Nam là tiểu bá ở châu Á,
xâm lược Campuchia, xua đuổi người Hoa".
Tháng 1 năm 1978, Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu các nước xã hội chủ
nghĩa giúp đỡ giải quyết cuộc xung đột Việt Nam - Campuchia. Một lần
nữa Trung Quốc không đáp ứng. Cũng trong tháng 1 năm 1978, Bà Đặng Dĩnh
Siêu, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc sang thăm Phnompenh
và ký một hiệp định xúc tiến viện trợ quân sự cho Campuchia Dân chủ, bắt
đầu chuyển vũ khí đến Campuchia. Trong chuyến thăm, bà Đặng Dĩnh Siêu
cũng tuyên bố, Trung Quốc sẽ không tha thứ cho một cuộc tấn công nào vào
đồng minh của họ. Trung Quốc cũng hủy bỏ hiệp ước về lãnh sự với Việt
Nam. Ngày 17/6/1978, Trung Quốc yêu cầu các lãnh sự quán Việt Nam ở Côn
Minh, Quảng Châu và Nam Ninh phải dời về nước. Ngày 12/7/1978, lần đầu
tiên, tờ Nhân dân Nhật báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, công khai buộc
tội Việt Nam "tìm cách sáp nhập Campuchia vào một Liên bang Đông Dương dưới sự thống trị của Việt Nam".
Ngày 4/11/1978 (một ngày sau khi Việt Nam và Liên Xô ký Hiệp ước hữu
nghị và hợp tác), Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc Uông
Đông Hưng sang Campuchia để bày tỏ sự ủng hộ của Bắc Kinh đối với
Campuchia.
Theo tính toán của nhà nghiên cứu D.R.SarDesai, từ năm 1975-1978,
Trung Quốc cung cấp cho Campuchia súng đại bác, súng cối, súng bazoca,
súng đại liên, súng trung liên, vũ khí các loại, xe cộ và xăng đầu đầy
đủ để trang bị cho đội quân 200.000 người, Trung Quốc cũng gửi khoảng
10.000 cố vấn và chuyên gia quân sự sang Campuchia để hỗ trợ và huấn
luyện quân đội Polpot". Theo Marish Chandona, tháng 7 năm 1977,
Campuchia chỉ có 6 sư đoàn, nhưng đến tháng 1 năm 1978, Campuchia có 25
sư đoàn. Cuối năm 1978, căng thẳng giữa Việt Nam với cả Campuchia cũng như Trung Quốc đều lên một đỉnh mới.
Ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân đội Việt Nam tổng phản công trên biên
giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền Khmer Đỏ. Trung
Quốc có được lý do để tuyên bố về cuộc chiến chống Việt Nam sắp tiến
hành. Sau khi Phnompenh thất thủ, ngày 27/1/1979 tờ Nhân dân Nhật báo có
bài viết, trong đó có đoạn: "Sự thất thủ của Phnompenh không có nghĩa
là chiến tranh chấm dứt mà chỉ là khởi đầu" và "vấn đề Campuchia đóng
vai trò vật xúc tác để đẩy các quan hệ với Việt Nam vượt quá một điểm
không thể nào quay trở lại được nữa".
Trong khi đó, Đặng Tiểu Bình nổi lên trở thành người lãnh đạo quyền
lực nhất Trung Quốc. Đặng nhìn thấy cả rắc rối lẫn cơ hội trong mối quan
hệ khó khăn với Việt Nam và cho rằng cách tốt nhất để nắm lấy những cơ
hội này là một hành động quân sự. Trong chuyến thăm Đông Nam Á tháng 12 năm 1978, tại một cuộc trả lời phỏng vấn được Trung Quốc truyền hình trực tiếp, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học" mà ngày hôm sau báo chí chính thức của Trung Quốc cắt ngắn thành "phải dạy cho Việt Nam bài học".
Tháng 1 năm 1979, Đặng Tiểu Bình bí mật cử Uỷ viên Bộ Chính trị Gừng
Giao cùng Thứ trưởng Ngoại giao Hàn Niệm Long khẩn cấp sang Bangkok, hội
đàm với Thủ tướng Thái Lan Kriangsak tại căn cứ không quân Utapao. Thái
Lan đồng ý để Trung Quốc sử dụng lãnh thổ của mình làm nơi tiếp tế cho
Khmer Đỏ. Đồng thời, sau hơn mười năm vắng bóng trên chính trường, Hoàng
thân Sihanouk đại diện cho Campuchia đọc diễn văn trước Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc, yêu cầu Đại hội đồng ra nghị quyết buộc Việt Nam rút quân
ra khỏi Campuchia.
Việc Trung Quốc lựa chọn thời điểm tấn công Việt Nam cũng hết sức
thuận lợi cho Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình vừa kết thúc chuyến công du
sang Mỹ, cùng với việc ông ta lớn tiếng đe dọa "dạy cho Việt Nam một bài
học", Trung Quốc tỏ ra họ có được hậu thuẫn từ Hoa Kỳ, hoặc ít nhất là
Mỹ cũng im lặng tán thành. Ngoài ra việc Trung Quốc cắt nguồn viện trợ
dầu cho Việt Nam vào cuối năm 1978, vốn chiếm tới hơn một nửa tiêu thụ
dầu của Việt Nam, trong khi Liên Xô chưa kịp viện trợ bổ sung, cũng
khiến dự trữ dầu chiến lược của Việt Nam bị thiếu hụt trong thời điểm
quyết định khi quân Trung Quốc tấn công. Thêm vào đó, việc Trưởng Ngân khố Mỹ Blumenthal của chính quyền Carter
viếng thăm Trung Quốc vào 24 tháng 2 cũng có tác dụng như một lời
khuyến khích ngầm Trung Quốc, và có tác dụng phụ đảm bảo với Trung Quốc
tình hình tại vùng duyên hải Phúc Kiến đối diện với Đài Loan
sẽ yên tĩnh trong thời gian đầu năm 1979, khiến Trung Quốc có thể yên
tâm tái bố trí các lực lượng tại Phúc Kiến về hướng biên giới phía nam
với Việt Nam.
Vấn đề biên giới và hải đảo
Biên giới
Cuộc đàm phán đầu tiên về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung
Quốc được tiến hành từ ngày 15/8/1974 đến ngày 2/11/1974 ở cấp Thứ
trưởng Ngoại giao.
Từ giữa năm 1975, tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc trở nên
căng thẳng do những hoạt động vũ trang từ phía Trung Quốc. Những xung
đột ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc tại khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn
vào cuối năm 1976 làm quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng xấu đi.
Tháng 3 năm 1977, Việt Nam và Trung Quốc tiến hành đàm phán lần thứ hai
về vấn đề biên giới Cao Lạng - Quảng Tây. Đoàn Việt Nam yêu cầu bàn biện
pháp chấm dứt các vụ vi phạm biên giới quốc gia và trở lại đường biên
giới lịch sử, trong khi đó đoàn Trung Quốc muốn giữ nguyên trạng để bàn
về các biện pháp ngăn ngừa xung đột, trong khi chờ Chính phủ hai nước
đàm phán giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Từ năm 1978 đến đầu năm 1979, mức độ xâm phạm lãnh thổ, hoạt động vũ
trang mang tính khiêu khích tại biên giới Việt Nam của Trung Quốc ngày
càng nghiêm trọng. Theo thống kê của Việt Nam, công bố trong Bị vong lục
của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày
15/2/1979, số vụ xâm phạm vũ trang của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam
năm 1978 là 583 vụ, trong tháng 1 và những tuần lễ đầu tháng 2 năm 1979
là 230 vụ. Không những vậy, Trung Quốc còn cho trên 100 lượt máy bay xâm
phạm vùng trời và 481 lượt tàu thuyền hoạt động khiêu khích trên vùng
biển Việt Nam. Chính phủ Việt Nam, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần
ra tuyên bố và gửi công hàm phản đối hành động xâm phạm biên giới Việt
Nam tới Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
Hải đảo
Từ năm 1973, Liên Hiệp Quốc
bắt đầu thảo luận về vấn đề chủ quyền của các quốc gia đối với vùng đặc
quyền kinh tế trên biển. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định
tuyên bố chủ quyền với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dựa theo hiệp ước Pháp-Thanh kí kết năm 1887. Về phía Trung Quốc, với cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 1970
nước này đã tìm kiếm các nguồn khai thác dầu mỏ trên biển Đông sát với
Việt Nam, một hành động mà theo Việt Nam là chiến lược bao vây đất nước
họ.
Tranh chấp giữa hai nước về hai quần đảo này đã bắt đầu ngay từ năm
1975 sau khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo này.
Ngày 10/9/1975, phía Trung Quốc gửi công hàm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Tây Sa và Nam
Sa (Hoàng Sa và Trường Sa). Tháng 9 năm 1975, trong chuyến viếng thăm
Trung Quốc của Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam do Lê Duẩn dẫn
đầu, Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn
nêu vấn đề Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa trong chuyến thăm
Trung Quốc, phía Việt Nam nêu vấn đề chủ quyền của mình đối với hai quần
đảo này. Trong cuộc gặp ngày 24/9/1975, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình
tuyên bố phía Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ để khẳng định quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Trung Quốc, nhưng cần theo nguyên tắc
hiệp thương hữu nghị để giải quyết bất đồng. Đặng Tiểu Bình cũng bày tỏ
hai bên có thể thương lượng để giải quyết vấn đề. Phản ứng không nhượng bộ của Trung Quốc làm lãnh đạo Việt Nam khó chịu.
Ngày 10/11/1975, Bộ ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi đến Bộ
Ngoại giao Trung Quốc công hàm nhắc lại tuyên bố ngày 24/9 của Đặng Tiểu
Bình và đề nghị ngưng tuyên truyền liên quan đến tranh chấp về các quần
đảo nhằm tạo không khí thuận lợi cho việc thương thảo. Tuy nhiên trong
công hàm trả lời ngày 24/12/1975, Bộ ngoại giao Trung Quốc bác bỏ đề
nghị này.
Ngày 3/12/1975, Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc Kinh khẳng
định với Bộ trưởng Bộ ngoại giao Trung Quốc chủ quyền của Việt Nam trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 5/6/1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao cộng hòa miền Nam Việt
Nam tuyên bố Việt Nam sẽ giành quyền bảo vệ hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Ngày 12/5/1977, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp
giáp, vùng đặc quyền kinh tế 200 dặm và thềm lục địa Việt Nam, bao gồm
cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc phản ứng mạnh mẽ với
tuyên bố này.
Ngày 30/7/1977, Ngoại trưởng Trung Quốc Hoàng Hoa tuyên bố: "Khi thời cơ đến chúng ta sẽ thu hồi toàn bộ quần đảo Nam Sa (quần đảo Trường Sa) mà không cần phải thương lượng gì hết".
Ngày 7/10/1977, Việt Nam và Trung Quốc có cuộc họp đàm phán về biên
giới. Trưởng đoàn Việt Nam Phan Hiền đề nghị đăng ký thảo luận về quần
đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm giữ từ năm 1974, trưởng đoàn đàm
phán Trung Quốc Hàn Niệm Long từ chối.
Ngày 15/3/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Bị vong lục về vấn đề
biên giới Việt -Trung, trong đó lên án việc Trung Quốc đánh chiếm trái
phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Ngày 28/9/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng, giới thiệu
19 tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và
Trường Sa
Vấn đề Hoa Kiều
Một lý do nữa khiến căng thẳng Việt Nam - Trung Quốc leo thang đó là vấn đề Hoa kiều tại Việt Nam. Trước năm 1975,
có khoảng 1,5 triệu người gốc Hoa sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, 15%
sống ở phía bắc vĩ tuyến 17 và 85% còn lại sinh sống ở miền Nam Việt
Nam. Người Hoa đặc biệt có ảnh hưởng ở miền Nam Việt Nam, nơi họ hoạt
động mạnh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Năm 1955, ở miền Bắc
Việt Nam, theo thỏa thuận của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc, "người Hoa cư trú ở miền Bắc Việt Nam phải được đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam" và dần dần chuyển thành công dân
Việt Nam, được hưởng những quyền lợi như người Việt Nam và tự nguyện
nhập quốc tịch Việt Nam. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm
đưa ra chính sách buộc người Hoa phải nhập quốc tịch Việt Nam hoặc họ
sẽ bị trục xuất khỏi lãnh thổ, ngược lại, Hà Nội và Bắc Kinh đồng ý trên
nguyên tắc về việc cho phép Hoa kiều tự chọn lựa quốc tịch của mình.
Cho đến năm 1975, giữa Việt Nam - Trung Quốc không có bất cứ một bất
đồng nào trong vấn đề người Hoa ở miền Bắc Việt Nam.
Tháng 4 năm 1978, Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp ở
miền Nam. Trung Quốc coi việc Việt Nam trong quá trình tiến hành cải tạo
công thương nghiệp, tịch thu tài sản của giới công thương người Hoa ở
miền Nam Việt Nam là một sự thách thức chính sách bảo vệ Hoa kiều của
Trung Quốc. Phản ứng lại chính sách cải tạo công thương của nhà nước
Việt Nam, một phong trào đòi lấy quốc tịch Trung Quốc trong người Hoa ở
Việt Nam nổi lên. Trung Quốc đưa ra chính sách "đoàn kết với giai cấp tư
sản Hoa kiều", kêu gọi chống lại chính sách "bài Hoa" của Việt Nam;
đồng thời, loan truyền trong cộng đồng người Việt gốc Hoa về một cuộc
chiến tranh không thể tránh khỏi giữa Việt Nam - Trung Quốc khiến cộng
đồng người Hoa hoảng hốt.
Chính sách của Việt Nam từ năm 1976 đã bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi
nhanh chóng của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, với nỗi e ngại
rằng Trung Quốc có thể sử dụng Hoa kiều để ép Việt Nam theo các chính
sách của mình. Vấn đề Hoa kiều được chính phủ Việt Nam xem là một thử
thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn thuần. Chính sách một quốc tịch bắt đầu, Hoa kiều nếu không nhập quốc tịch Việt Nam sẽ bị cho thôi việc, các báo và cơ sở giáo dục tiếng Hoa cũng bị đóng cửa.
Do ảnh hưởng của những yếu tố trên, trong năm 1978 cộng đồng người Hoa ở Việt Nam ồ ạt kéo về Trung Quốc. Từ năm 1977 đã có 70.000 Hoa kiều từ Việt Nam quay về Trung Quốc. Cho đến thời điểm xảy ra cuộc chiến đã có chừng 160.000 Hoa kiều hồi hương từ Việt Nam bằng đường biển hoặc đường bộ qua Cửa khẩu Hữu Nghị.
Ngày 30/4/1978, Chủ nhiệm Văn phòng Hoa kiều vụ đã phát biểu bày tỏ "sự
quan tâm đối với hiện tượng Hoa kiều ở Việt Nam về nước hàng loạt", hứa
hẹn "sẽ sắp xếp thích đáng cho những Hoa kiều đã trở về một cách vội
vàng". Trung Quốc lập ra các trạm đón tiếp dọc theo biên giới hai nước.
Sau đó, tháng 5 năm 1978, Trung Quốc đưa tàu sang đón người Hoa về Trung
Quốc. Ngày 12 tháng 7 năm 1978, Trung Quốc đóng cửa biên giới Việt Nam –
Trung Quốc, làm cho hàng vạn người Hoa muốn đi Trung Quốc bị kẹt lại
tại biên giới. Do có quá nhiều người Hoa xin nhập cảnh vào Trung Quốc,
nước này đưa ra điều kiện là người Hoa muốn về Trung Quốc phải chính
thức xin giấy phép hồi hương do Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội cấp, cần
có hộ chiếu xuất cảnh của chính quyền Việt Nam. Trung Quốc chỉ đón nhận
những "nạn kiều người Hoa" đang bị Chính quyền Việt Nam ngược đãi, chứ
không nhận về "người Việt gốc Hoa", hay người Hoa có quốc tịch Việt Nam.
Việc ra đi ồ ạt của người Hoa chuyên sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và hoạt động thương nghiệp làm tăng thêm tình trạng khan
hiếm hàng hoá tiêu dùng một cách gay gắt, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế
Việt Nam.
Mục đích và mục tiêu của Trung Quốc
Theo hồi ký của tướng Zhou Deli, tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu, tháng 9 năm 1978, tại văn phòng Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
diễn ra một cuộc họp về "cách giải quyết vấn đề lãnh thổ bị quân Việt
Nam chiếm đóng". Mối quan tâm ban đầu là nhắm vào cuộc xung đột biên
giới. Đề xuất đầu tiên tại cuộc họp muốn có một cuộc tấn công nhỏ vào
một trung đoàn Việt Nam tại Trùng Khánh, Việt Nam giáp với Quảng Tây,
Trung Quốc. Sau khi nhận được tin tình báo cho biết Việt Nam sẽ tấn công
Campuchia, đa số người dự họp cho rằng một cần có một cuộc tấn công tác
động lớn đến Hà Nội và tình hình Đông Nam Á. Họ đề nghị tấn công vào
một đơn vị quân chính quy Việt Nam ở một khu vực địa lý rộng hơn. Cuộc
họp kết thúc mà không đưa ra quyết định nào.
Tháng 11 năm 1978, Đặng Tiểu Bình công du Thái Lan, Malaysia và Singapore.
Trong chuyến đi này, Đặng Tiểu Bình nói với lãnh đạo các nước này rằng
Trung Quốc sẽ dùng vũ lực nếu Việt Nam tấn công Campuchia.
Ngày 7 tháng 12 năm 1978, Ủy ban Quân sự Trung ương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
họp và ra quyết định mở một cuộc chiến hạn chế ở biên giới Việt Nam -
Trung Quốc. Cuộc chiến này sẽ được tiến hành một cách hạn chế, trong
phạm vi 50 cây số từ biên giới và kéo dài hai tuần. Ngày 8 tháng 12 năm
1978, Ủy ban Quân sự Trung ương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra chỉ thị
cho các Quân khu Quảng Châu và Côn Minh chuẩn bị đầy đủ lực lượng trước ngày 10 tháng 1 năm 1979 để thực hiện chiến dịch tấn công Việt Nam.
Tuyên bố chiến tranh của Bắc Kinh nói rằng đây là cuộc chiến để quân
Trung Quốc "phản công" chống lại các khiêu khích của Việt Nam. Phát ngôn
viên của Tân Hoa xã nói: "Các
lực lượng biên phòng Trung Quốc đã hành động khi tình hình trở nên
không thể chấp nhận được và không còn lựa chọn nào khác. Chúng tôi không
muốn một tấc đất nào của Việt Nam. Cái chúng tôi muốn là một đường biên
giới ổn định và hòa bình. Sau khi đánh trả các thế lực hiếu chiến đủ
mức cần thiết, các lực lượng biên phòng của chúng tôi sẽ quay lại bảo vệ
chặt chẽ biên giới của tổ quốc."
Nhiều nhà sử học phương Tây cho rằng cuộc chiến có những mục đích
không rõ ràng, trong đó dễ thấy nhất là mục đích trừng phạt Việt Nam vì
đã lật đổ chế độ Khmer Đỏ tại Campuchia - một đồng minh của Trung Quốc
và là một trong những chế độ tàn bạo nhất của thế kỉ 20. Về sau, một số
nhà sử học suy đoán rằng cuộc chiến có vẻ là một phần trong kế hoạch
hiện đại hóa quân đội của Đặng Tiểu Bình khi nó thể hiện rõ các khiếm
khuyết của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Những người khác cho
rằng Đặng Tiểu Bình gây ra chiến tranh để giữ cho quân đội bận rộn trong
khi ông củng cố quyền lực và loại bỏ các đối thủ cánh tả từ thời Mao
Trạch Đông.
Theo Carl Thayer, trong mắt Trung Quốc, Hà Nội đã vô ơn với Bắc Kinh:
sau khi được giúp đỡ trong cuộc chiến chống Mỹ thì quay sang bạc đãi
cộng đồng người Hoa, quan hệ nồng ấm với Liên Xô mà khi đó Trung Quốc
coi là kẻ thù, rồi lại tấn công quân sự lật đổ đồng minh Khmer Đỏ của
Bắc Kinh. Trung Quốc muốn "dạy cho Việt Nam một bài học" vì đã thách
thức uy quyền và ảnh hưởng của Trung Quốc tại vùng Đông Dương. Bên cạnh
việc xâm lấn Việt Nam để "bình định vùng biên giới" sau nhiều năm căng
thẳng với các xung đột ngày càng nhiều, Trung Quốc phải hành động để
chứng tỏ uy tín của mình trong việc bảo vệ đồng minh Khmer Đỏ.
Đối với Việt Nam, cuộc chiến là một phần trong kế hoạch bành trướng về phía nam của Trung Quốc.
Trước khi có xung đột, Việt Nam đã đề phòng những kế hoạch tiến xuống
Đông Dương (bao gồm biển Đông). Trung Quốc đã viện trợ vũ khí, thuốc men
và các nhu yếu phẩm khác cho Campuchia và xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng,
đồng thời xúi giục Khmer Đỏ tấn công Việt Nam. Sau khi khống chế
Campuchia rồi sẽ dùng bàn đạp để phối hợp với quân Trung Quốc ở phía bắc
làm thế gọng kìm bao vây, nếu cần sẽ tấn công để buộc Việt Nam khuất
phục. Theo phân tích của phía Việt Nam, mục tiêu chính của Trung Quốc
trong hành động quân sự lần này gồm:
- Nhanh chóng chiếm đóng vùng biên giới Việt-Trung, đặc biệt là các thị xã trọng yếu gồm Lạng Sơn (chốt chặn nối Quốc lộ 1A của Việt Nam với Trung Quốc), Cao Bằng và Lào Cai. Vùng chiếm đóng dự kiến với bề sâu chừng vài chục km sẽ được Trung Quốc sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc tấn công vào sâu nội địa Việt Nam.
- Tiêu hao lực lượng chủ lực và làm suy yếu khả năng phòng ngự phía Việt Nam bằng việc quét sạch các đồn biên phòng, tiêu diệt một phần lực lượng quân địa phương và các đơn vị quân độc lập khác của Việt Nam.
- Hủy diệt cơ sở hạ tầng và nền kinh tế ở các vùng chiếm đóng để đưa nền kinh tế Việt Nam tới chỗ sụp đổ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét