Để tấn công Việt Nam, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và một
số sư đoàn bộ binh độc lập (tổng cộng 32 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng,
4 sư đoàn và nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không. Lực lượng được
huy động khoảng trên 30 vạn binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260
súng cối và dàn hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay sẵn sàng phía sau. Tướng Hứa Thế Hữu, tư lệnh Đại Quân khu Quảng Châu chỉ huy hướng tiến công vào đông bắc Việt Nam với trọng điểm là Lạng Sơn và Cao Bằng. Tướng Dương Đắc Chí, tư lệnh Đại Quân khu Côn Minh đảm nhiệm hướng tây bắc với trọng điểm là Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai). Đây là đợt huy động quân sự lớn nhất của Trung Quốc kể từ Chiến tranh Triều Tiên.
Ngoài lực lượng quân chính qui, Trung Quốc còn huy động hàng chục vạn
dân công và lực lượng dân binh ở các tỉnh biên giới để tải đồ tiếp tế,
phục vụ, tải thương, hỗ trợ quân chính qui phục vụ cho chiến dịch, chỉ riêng tại Quảng Tây đã có đến 215.000 dân công được huy động. Về phân phối lực lượng của Trung Quốc: hướng Lạng Sơn có quân đoàn 43, 54, 55; hướng Cao Bằng có quân đoàn 41, 42, 50; hướng Hoàng Liên Sơn có quân đoàn 13, 14; hướng Lai Châu có quân đoàn 11; hướng Quảng Ninh, Hà Tuyên (nay là Hà Giang) mỗi nơi cũng có từ 1-2 sư đoàn.
Về phía Việt Nam, do phần lớn các quân đoàn chính quy (3 trong số 4
quân đoàn) đang chiến đấu ở Campuchia nên phòng thủ ở biên giới với
Trung Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lực quân khu (chủ yếu là tân binh)
của Quân khu I và II
cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, công an vũ trang (biên
phòng) và dân quân tự vệ. Lực lượng tinh nhuệ nhất của phía Việt Nam
đóng ở biên giới Việt-Trung là Sư đoàn 3 (đóng tại Lạng Sơn) và sư đoàn 316A (đóng tại Sa Pa), ngoài ra còn có các sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345 ở Lào Cai, 326 ở Phong Thổ, Lai Châu.
Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế,
thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng
biên giới có khoảng 70.000 quân, sau được hai sư đoàn (327 và 337) từ
tuyến sau lên Lạng Sơn tiếp viện.Lực lượng độc lập gồm các trung đoàn 141, 147, 148, 197, trung đoàn
pháo binh 68, các trung đoàn quân địa phương 95, 121, 192, 254 và 741. Quân đoàn 1 vẫn đóng quanh Hà Nội đề phòng Trung Quốc đổi ý tiến sâu vào trung châu. Ngày 27 tháng 2, Quân đoàn 2
là chủ lực của Bộ quốc phòng được lệnh cơ động về để bảo vệ miền Bắc,
đến ngày 5 tháng 3 bắt đầu triển khai trên hướng Lạng Sơn, nhưng chưa
kịp tham chiến thì Trung Quốc tuyên bố rút quân.
Diễn biến
Chuẩn bị
Quân sự
Theo nguồn tin từ Cục tình báo Trung ương Hoa Kỳ CIA, thì từ giữa năm
1978, Trung Quốc đã hoàn chỉnh các phương án tác chiến, các đơn vị quân
đội Trung Quốc đã sẵn sàng mở cuộc tiến công quân sự quy mô lớn chống
Việt Nam, chỉ cần thời cơ đến là phát động chiến tranh. Trong những buổi
họp của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc từ giữa năm 1978 đến cuối
năm 1978, nhiều biện pháp trừng phạt Việt Nam bằng quân sự được đưa ra
bàn thảo. Từ giữa tháng 12 năm 1978, Trung Quốc đã chọn lực lượng quân
đội từ năm quân khu và đưa áp sát biên giới Trung - Việt.
Từ tháng 10 năm 1978 cho đến 15 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc thực
hiện hàng loạt các vụ tấn công thăm dò vào các vị trí phòng thủ của Việt
Nam tại biên giới, với mục đích thu thập thông tin tình báo, đe dọa
quân Việt Nam, và đánh lạc hướng khỏi mục tiêu chính của chiến dịch sắp
tới. Các cuộc tấn công nhỏ này tăng dần về quy mô và tần số khi lực
lượng Trung Quốc tập trung tại biên giới ngày càng đông. Không có tài
liệu gì về các cuộc tấn công thăm dò của quân Việt Nam. Dấu hiệu đầu tiên của chiến tranh là việc Trung Quốc cắt đứt tuyến đường sắt Hữu Nghị nối liền hai nước vào ngày 22 tháng 12 năm 1978.
Đến cuối tháng 1 năm 1979, khoảng 17 sư đoàn chính quy Trung Quốc
(khoảng 225.000 quân), đã tập trung gần biên giới với Việt Nam. Hơn 700
máy bay chiến đấu và máy bay ném bom - 1/5 lực lượng không quân Trung
Quốc - đã được đưa đến các sân bay gần biên giới. Các động thái leo thang này của Trung Quốc đã được phía Việt Nam đề cập tại cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ngày 11 tháng 2 năm 1979.
Từ ngày 9 đến ngày 12/2/1979, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc họp hội nghị để nghe báo cáo của Đặng Tiểu Bình và đánh giá tình
hình. Hội nghị quyết định tấn công Việt Nam và thành lập Bộ Chỉ huy
chung. Ngày 16/2/1979, Trung Quốc tổ chức cuộc họp phổ biến ý nghĩa của
cuộc chiến tranh sắp tới chống Việt Nam cho cán bộ cao cấp nước này.
Trong cuộc họp này, Đặng Tiểu Bình nêu mục tiêu, cái lợi, hại của cuộc
chiến tranh chống Việt Nam, nhấn mạnh đây là cuộc phản kích tự vệ, hạn
chế về thời gian và không gian.
Để cảnh báo Liên Xô và cũng nhằm ngăn chặn bị tấn công từ hai mặt,
Trung Quốc đặt toàn bộ quân đội đóng dọc biên giới Trung-Xô vào tình
trạng báo động đồng thời thiết lập một sở chỉ huy quân đội mới ở Tân Cương và di tản 300.000 dân khỏi vùng biên giới với Liên Xô.
Để đối phó lại việc Trung Quốc tập trung bộ binh và vũ khí hạng nặng
tại biên giới, cũng như việc các cuộc đột kích vũ trang ngày càng gia
tăng, Việt Nam tiến hành chuẩn bị các vị trí phòng ngự, chuẩn bị tinh
thần dân chúng sẵn sàng một khi chiến tranh xảy ra. Tuy nhiên Việt Nam
tại thời điểm đó vẫn tin rằng Trung Quốc sẽ không tấn công, vì Trung
Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa anh em. Thêm nữa, Việt Nam tin
rằng đa phần nhân dân Trung Quốc không ủng hộ chiến tranh và sẽ phản đối
chiến tranh nổ ra. Ngoài ra, tuyên bố của Đặng Tiểu Bình chỉ một tuần
trước khi chiến tranh nổ ra, rằng chiến dịch quân sự của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc sẽ không dài hơn cuộc chiến 1962
với Ấn Độ, cộng với các tuyên bố của Đặng trước đó rằng chiến dịch quân
sự này "giới hạn về không gian và thời gian", khiến Hà Nội tin tưởng họ
có khả năng cầm chân quân Trung Quốc tại các tỉnh biên giới.
Lực lượng Việt Nam đương đầu với cuộc tấn công của Trung Quốc chủ yếu
là dân quân và bộ đội địa phương. Từ vài tháng trước khi chiến tranh nổ
ra, Hà Nội đã tiến hành huấn luyện và trang bị vũ khí hạng nhẹ cho dân
quân tại các tỉnh biên giới. Chỉ có một số đơn vị quân chính qui tham
gia chiến trận, nhất là các đơn vị phòng thủ Lạng Sơn, nhưng ngay cả tại
đây, lực lượng chủ yếu vẫn là dân quân và quân địa phương. Hà Nội giữ
lại 5 sư đoàn chủ lực ở tuyến sau đề phòng Trung Quốc tiến sâu về đồng
bằng, và đồng thời cũng để giới hạn việc cuộc chiến leo thang.
Ngoại giao
Ngày 12/8/1978, trước khi tấn công Việt Nam, Trung Quốc ký với Nhật
Bản Hiệp ước hoà bình, hữu nghị có giá trị trong mười năm và sẽ tái ký
sau đó nhằm tạo sự ổn định tại khu vực Đông Bắc Á có lợi cho Trung Quốc.
Ngày 5/11/1978, Đặng Tiểu Bình đi thăm các nước ASEAN. Trong chuyến
đi ngày Đặng nói rằng, việc Việt Nam ký Hiệp ước Việt - Xô ngày
3/11/1978 là mối de dọa đối với các nước ASEAN, Đặng Tiểu Bình kêu gọi
thành lập Mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam, bao gồm Trung Quốc, khối
nước ASEAN để cân bằng lại quyền lợi của các nước Đông Nam Á và nói rõ
quyết tâm của Trung Quốc không để khu vực Đông Nam Á rơi vào tay Việt
Nam. Trong chuyến đi này, Đặng Tiểu Bình công khai ý định dùng biện pháp
quân sự đối phó với Việt Nam. Các nước ASEAN đều cho rằng cuộc xung đột
Việt Nam - Campuchia và Việt Nam - Trung Quốc là "nhân tố không ổn định
đối với hoà bình khu vực". Tuy nhiên, vì Việt Nam nghiêng về phía Liên
Xô nên các nước ASEAN nhận thấy cần phải nhích lại gần Trung Quốc hơn
nữa. Tại Bangkok, theo yêu cầu của Đặng Tiểu Bình, Thái Lan đồng ý cho
phép máy bay Trung Quốc quá cảnh qua vùng trời Thái Lan để đi Campuchia
và trở về.
Theo Nayan Chanda, liên minh giữa Bắc Kinh và Bangkok đã mở ra con
đường mòn Đặng Tiểu Bình xuyên qua Thái Lan và biến Thái Lan thành một
cái khoen chặn chiến lược an toàn của Trung Hoa tại Campuchia.
Sau đó, tháng 1 năm 1979, Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ rồi tới thăm Nhật.
Về mặt ngoại giao, sau khi bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ từ tháng
12 năm 1978, trong chuyến thăm Washington từ 28 đến 30 tháng 1, Đặng Tiểu Bình nhận được sự ủng hộ cần thiết của đồng minh mới Hoa Kỳ trong kế hoạch tấn công Việt Nam, tuy nhiên tổng thống Jimmy Carter
cũng cảnh báo Đặng rằng vụ tấn công của Trung Quốc, nếu xảy ra, sẽ
không thể nhận được sự ủng hộ về mặt ngoại giao hoặc quân sự quốc tế.
Trong chuyến đi này, Đặng Tiểu Bình đã thông báo về ý định chuẩn bị tấn
công Việt Nam với mong muốn có được sự hỗ trợ về tinh thần từ phía Mỹ.
Khi tiếp xúc bí mật với Brzezinski, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: "Đối với Việt Nam, Trung Quốc phải chịu trách nhiệm đối phó" và nhấn mạnh: "Các
ngài nhớ kỹ một điều là những lời phát biểu của tôi trong chuyến thăm
nước Mỹ sẽ hoàn toàn được chứng thực bằng những hành động". Đặng
Tiểu Bình cũng bảo đảm rằng, cuộc tấn công Việt Nam sẽ giới hạn và nhanh
chóng. Trong chuyến đi của Đặng Tiểu Bình sang Mỹ, Đặng đã chuẩn bị
tinh thần cho các đồng minh một cách chắc chắn rằng sẽ thực hiện sự
trừng phạt như đã loan báo.
Hai tuần sau chuyến thăm, ngay trước khi Trung Quốc tấn công Việt
Nam, Đại sứ Mỹ Malcolm kín đáo khuyến cáo Ngoại trưởng Gromutko là Liên
Xô nên tự kiềm chế trong trường hợp Trung Quốc tấn công Việt Nam, để
khỏi ảnh hưởng đến việc Quốc hội Mỹ sẽ thông qua Hiệp ước SALT mà Liên
Xô rất mong muốn.
Từ ngày 1 đến ngày 13 tháng 1 năm 1979, phía Trung Quốc liên tiếp có
nhiều phát biểu và bình luận mà nội dung là tố cáo Việt Nam xâm lược,
lên án Việt Nam chiếm đóng Phnôm Pênh. Trung Quốc kêu gọi Campuchia Dân
chủ đánh lâu dài và hứa sẽ ủng hộ toàn diện. Trung Quốc đưa ra Hội đồng
Bảo an Dự thảo nghị quyết đòi Việt Nam rút quân, kêu gọi các nước chấm
dứt viện trợ cho Việt Nam. Trước dư luận trong nước và quốc tế, Trung
Quốc công khai tuyên bố: "Việt Nam là tiểu bá theo đại bá Liên Xô",
"Trung Quốc quyết không để cho ai làm nhục", cuộc tiến công của Trung
Quốc vào Việt Nam sắp tới là nhằm "dạy cho Việt Nam một bài học". Trước
thái độ đó, báo chí và chính giới Mỹ không có phản ứng công khai, còn
Thủ tướng Liên Xô A.Kosygin thì nhận định: Tuyên bố của Đặng Tiểu Bình
là một bản "tuyên bố chiến tranh với Việt Nam".
Ngày 7 tháng 2,
Bắc Kinh báo trước về một chiến dịch tấn công Việt Nam với thông cáo
chính thức của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phản đối việc quân
đội Việt Nam tiến vào lãnh thổ Campuchia và đề nghị tất cả các quốc gia
yêu hòa bình "dùng mọi biện pháp có thể để chấm dứt cuộc xâm lược dã man
này".
Ngày 15 tháng 2 năm 1979, nhân dịp 29 năm hiệp ước Trung-Xô về vấn đề Mông Cổ
và thời điểm kết thúc chính thức Hiệp ước hợp tác Trung-Xô, Đặng Tiểu
Bình tuyên bố Trung Quốc chuẩn bị tấn công giới hạn Việt Nam.
Giai đoạn 1
5 giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979,
lực lượng Trung Quốc khoảng 120.000 quân bắt đầu tiến vào Việt Nam trên
toàn tuyến biên giới, mở đầu là pháo, tiếp theo là xe tăng và bộ binh. Cánh phía đông có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Nam Ninh và mục tiêu chính là Lạng Sơn. Có hai hướng tiến song song, hướng thứ nhất do quân đoàn 42A dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng Đăng nhằm làm bàn đạp đánh Lạng Sơn, hướng thứ hai do quân đoàn 41A dẫn đầu từ Tĩnh Tây và Long Châu tiến vào Cao Bằng và Đông Khê. Ngoài ra còn có quân đoàn 55A tiến từ Phòng Thành vào Móng Cái. Cánh phía tây có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Mông Tự, có 3 hướng tiến công chính. Hướng thứ nhất do các quân đoàn 13A và 11A dẫn đầu đánh từ vào thị xã Lào Cai. Hướng thứ hai từ Văn Sơn đánh vào Hà Giang. Hướng thứ 3 do sư đoàn 42D của quân đoàn 14A dẫn đầu đánh từ Kim Bình vào Lai Châu.
Tổng cộng quân Trung Quốc xâm nhập Việt Nam trên 26 điểm, các khu vực
dân cư Việt Nam chịu thiệt hại nặng nhất từ đợt tấn công đầu tiên này là
Lào Cai, Mường Khương, Cao Bằng, Lạng Sơn và Móng Cái.
Không quân và hải quân không được sử dụng trong toàn bộ cuộc chiến.
Tất cả các hướng tấn công đều có xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Quân Trung
Quốc vừa chiếm ưu thế về lực lượng, vừa chủ động về thời gian tiến công,
lại còn có "lực lượng thứ năm" gồm những người Việt gốc Hoa
trên đất Việt Nam. Từ đêm 16 tháng 2, các tổ thám báo Trung Quốc đã
mang theo bộc phá luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với "lực lượng
thứ năm" này lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ
suối, các cây cầu để ngăn chặn quân tiếp viện của Việt Nam từ phía sau
lên. Trước giờ nổ súng, các lực lượng này cũng bí mật cắt các đường dây
điện thoại để cô lập chỉ huy sư đoàn với các chốt, trận địa pháo.
Tiến nhanh lúc khởi đầu, nhưng quân Trung Quốc nhanh chóng phải giảm
tốc độ do gặp nhiều trở ngại về địa hình và hệ thống hậu cần lạc hậu
phải dùng lừa, ngựa và người thồ hàng.
Hệ thống phòng thủ của Việt Nam dọc theo biên giới rất mạnh, với các
hầm hào hang động tại các điểm cao dọc biên giới do lực lượng quân sự có
trang bị và huấn luyện tốt trấn giữ. Kết quả là Trung Quốc phải chịu
thương vong lớn.
Trong ngày đầu của cuộc chiến, chiến thuật dùng biển lửa và biển người
của Trung Quốc đã có kết quả tốt, họ tiến được vào sâu trong lãnh thổ
Việt Nam hơn 10 dặm và chiếm được một số thị trấn. Chiến sự ác liệt nhất
diễn ra tại các vùng Bát Xát, Mường Khương ở tây bắc và Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị, Thông Nông ở đông bắc. Quân Trung Quốc cũng đã vượt sông Hồng và đánh mạnh về phía Lào Cai.
Trong hai ngày 18 và 19 tháng 2, chiến sự lan rộng hơn. Việt Nam
kháng cự rất mạnh và với tinh thần chiến đấu cao. Quân Trung Quốc hầu
như không thể sử dụng lực lượng ở mức sư đoàn mà phải dùng đội hình nhỏ
và thay đổi chiến thuật. Họ tiến chậm chạp, giành giật từng đường hầm,
từng điểm cao, và cuối cùng cũng chiếm được Mường Khương, Trùng Khánh,
và Đồng Đăng. Tại Móng Cái, hai bên giành giật dai dẳng. Cả hai bên đều
phải chịu thương vong cao, có ít nhất 4.000 lính Trung Quốc chết trong hai ngày đầu này. Sau hai ngày chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm được 11 làng mạc và thị trấn, đồng thời bao vây Đồng Đăng, thị trấn có vị trí then chốt trên đường biên giới Trung-Việt.
Trận chiến tại Đồng Đăng bắt đầu ngay từ ngày 17 và là trận ác liệt nhất. Đây là trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, Sư đoàn 3 Sao Vàng,
Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tấn công vào Đồng Đăng là 2 sư đoàn bộ
binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi viện của 6 trung đoàn pháo binh Trung
Quốc.
Cụm điểm tựa Thâm Mô, Pháo Đài, 339 tạo thế chân kiềng bảo vệ phía tây
nam thị xã Đồng Đăng, do lực lượng của hai Tiểu đoàn 4 và 6, Trung đoàn
12 trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với
lực lượng cấp sư đoàn. Lực lượng phòng thủ không được chi viện nhưng đã
chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được cho đến ngày 22. Ngày cuối
cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi
được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa
chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn.
Ngày 19 tháng 2, Đặng Tiểu Bình trong cuộc gặp với giới ngoại giao Argentina tuyên bố đây là cuộc chiến tranh hạn chế và Trung Quốc sẽ rút quân ngay sau khi đạt được mục tiêu giới hạn. Cùng ngày, một đoàn cố vấn quân sự cao cấp của Liên Xô do đại tướng G.Obaturovym đứng đầu tới Hà Nội
hỗ trợ cho các tướng lĩnh chỉ huy của Việt Nam. Nhóm chuyên gia của
Trung tướng M.Vorobevy có trách nhiệm cố vấn cho bộ tư lệnh lực lượng
Phòng không – Không quân còn Đại tướng G.Obaturovym làm cố vấn cho Tổng
tham mưu trưởng lực lượng vũ trang Việt Nam Lê Trọng Tấn và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đại tướng Văn Tiến Dũng. Moskva yêu cầu Trung Quốc rút quân. Liên Xô cũng viện trợ gấp vũ khí cho Việt Nam qua cảng Hải Phòng.
Đến 21 tháng 2,
Trung Quốc tăng cường thêm 2 sư đoàn và tiếp tục tấn công mạnh hơn nữa.
Ngày 22, các thị xã Lào Cai và Cao Bằng bị chiếm. Quân Trung Quốc chiếm
thêm một số vùng tại Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh. Chiến
sự lan rộng tới các khu đô thị ven biển ở Móng Cái. Về phía Việt Nam,
cùng lúc với việc triển khai phòng ngự quyết liệt, khoảng từ 3 đến 5 sư
đoàn (gồm 30.000 quân) cũng được giữ lại để thành lập một tuyến phòng
ngự cánh cung từ Yên Bái tới Quảng Yên với nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng.
Ngày 23 tháng 2, Đặng Tiểu Bình nhắc lại tuyên bố về "cuộc chiến
tranh hạn chế" và nói sẽ rút quân trong vòng 10 ngày hoặc hơn. Đây được
xem là thông điệp nhằm ngăn Liên Xô can thiệp quân sự, đáp lại kêu gọi
rút quân của Mỹ, xoa dịu các nước đang lo ngại về một cuộc chiến lớn
hơn, và gây khó hiểu cho Việt Nam Trong khi đó, một tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak
của Liên Xô đã rời cảng từ ngày 21 tiến về phía vùng biển Việt Nam.
Liên Xô cũng đã bắt đầu dùng máy bay giúp Việt Nam chở quân và vũ khí ra
Bắc. Hai chuyến bay đặc biệt của Liên Xô và Bulgaria chở vũ khí, khí tài bay tới Hà Nội.
Ngày 26 tháng 2, thêm nhiều quân Trung Quốc tập kết quanh khu vực Lạng Sơn chuẩn bị cho trận chiến đánh chiếm thị xã này. Sau khi thị sát chiến trường, Bộ tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt
Nam đề xuất điều động một quân đoàn từ Campuchia cùng một tiểu đoàn pháo
phản lực BM-21 vừa được Liên Xô viện trợ về Lạng Sơn. Đồng thời tổ chức
và huy động lại các đơn vị và các phân đội, biên chế lại một sư đoàn
vừa rút lui từ chiến trường, tiến hành các hoạt động tác chiến vào sâu
trong hậu phương địch.
Phi đoàn máy bay vận tải An-12 của Liên Xô đã tiến hành không vận Quân đoàn 2, Quân đội Nhân dân Việt Nam từ Campuchia về Lạng Sơn.
Ngày 25 tháng 2, tại Mai Sao, Quân đoàn 14 thuộc Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập, lực lượng bao gồm các Sư đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ Quân khu 4 ra) và sau này có thêm Sư đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.
Trong giai đoạn đầu đến ngày 28 tháng 2 năm 1979,
quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị
trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để.
Tuy nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam cũng như có
chiến thuật lạc hậu so với phía Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất
chậm và bị thiệt hại nặng. Quân Việt Nam còn phản kích đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh (Quảng Tây) và Malipo (Vân Nam) của Trung Quốc, nhưng chỉ có ý nghĩa quấy rối.
Giai đoạn 2
Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 27 tháng 2.
Chiến sự tập trung tại Lạng Sơn tuy giao tranh tại Lào Cai, Cao Bằng,
và Móng Cái vẫn tiếp diễn. Trận đánh chiếm thị xã Lạng Sơn bắt đầu lúc 6
giờ sáng cùng ngày. Trung Quốc điều tới đây thêm 2 sư đoàn từ Đồng Đăng
và Lộc Bình (phía đông nam Lạng Sơn), tiếp tục đưa thêm quân mới từ
Trung Quốc thâm nhập Việt Nam để tăng viện.
Tại Lạng Sơn, các Sư đoàn 3, 337, của Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chu
đáo và phản ứng mãnh liệt trước các đợt tấn công lớn của quân Trung
Quốc. Từ ngày 2 tháng 3, Sư đoàn 337 trụ tại khu vực cầu Khánh Khê. Sư
đoàn 3 chống trả 3 sư đoàn bộ binh 160, 161, 129, cùng nhiều tăng, pháo,
tiến công trên một chiều dài 20 km từ xã Hồng Phong huyện Văn Lãng đến xã Cao Lâu huyện Cao Lộc.
Suốt ngày 27, ở hướng Cao Lộc, sư đoàn 129 Trung Quốc không phá nổi
trận địa phòng thủ của trung đoàn 141; ở hướng đường 1B, sư đoàn 161 bị
trung đoàn 12 ghìm chân; ở hướng đường 1A, trung đoàn 2 vừa chặn đánh sư
đoàn 160 từ phía bắc vừa chống lại cánh quân vu hồi của sư đoàn 161 từ
hướng tây bắc thọc sang. Nhưng 14 giờ ngày hôm đó, 1 tiểu đoàn Trung
Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt
đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng. Mất điểm cao 800, thế
trận phòng ngự của Việt Nam ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao
417 bị chọc thủng Chiếm được điểm cao 800 và Tam Lung,
nhưng trong suốt các ngày từ 28 tháng 2 đến 2 tháng 3, quân Trung Quốc
vẫn không vượt qua được đoạn đường 4 km để vào thị xã Lạng Sơn, tuy đã
dùng cho hướng tiến công này gần 5 sư đoàn bộ binh.
Sau nhiều trận đánh đẫm máu giành giật các điểm cao quanh Lạng Sơn, mà
có trận quân phòng thủ Việt Nam đánh đến viên đạn cuối cùng, quân Trung
Quốc bắt đầu bao vây thị xã Lạng Sơn ngày 2 tháng 3 sử dụng thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54 và dùng 6 sư đoàn tấn công đồng loạt trên nhiều hướng.
Chiều ngày 4, một cánh quân Trung Quốc đã vượt sông Kỳ Cùng, chiếm điểm
cao 340 và vào tới thị xã Lạng Sơn, một cánh quân khác của sư đoàn 128
Trung Quốc cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở phía tây nam thị
xã.
Đến đây, phía Việt Nam đã điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo
binh, không quân hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng
các khu vực bị chiếm đóng. Quân đoàn 14 với các sư đoàn 337, 327, 338
hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quân quanh thị xã Lạng Sơn. Quân đoàn
2, chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã tập kết sau lưng Quân
đoàn 14.
Trung Quốc rút quân
Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Cùng ngày, Bắc Kinh tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu chiến tranh", "chiến thắng" và bắt đầu rút quân.
Ngày 6 tháng 3 năm 1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
ra Chỉ thị số 69, nhận định về tình hình và đưa ra chủ trương trong
điều kiện Trung Quốc rút quân. Chỉ thị này khẳng định: "Trong khi
chấp nhận cho địch rút quân, chúng ta luôn luôn phải nâng cao cảnh giác,
tăng cường quốc phòng, sẵn sàng giáng trả địch đích đáng, nếu chúng lật
lọng, trở lại xâm lược nước ta lần nữa (...) Không được một chút mơ hồ
nào đối với âm mưu cơ bản của bọn phản động Trung Quốc là thôn tính nước
ta, khuất phục nhân dân ta (...) luôn luôn sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc, đập tan bọn xâm lược (...) cần giương cao chính nghĩa
của ta, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc và bảo vệ hòa bình, xúc tiến
việc hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ, bảo vệ Việt Nam". Ngày 7 tháng 3, Việt Nam tuyên bố rằng để thể hiện "thiện chí hòa bình", Việt Nam sẽ cho phép Trung Quốc rút quân.
Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số
nơi. Dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết, chẳng hạn như vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại thôn Đổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng,
khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và
20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng
hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối.
Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung Quốc còn phá hủy một cách có
hệ thống toàn bộ các công trình xây dựng, từ nhà dân hay cột điện, tại
các thị xã thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn,...
Sư đoàn 337 của Việt Nam, lên tham chiến từ ngày 2 tháng 3 tại khu
vực cầu Khánh Khê ở Lạng Sơn để chi viện cho các đơn vị đang chặn đánh
quân Trung Quốc. Sư đoàn này đến nơi quá muộn để thay đổi cục diện trận
đánh tại Lạng Sơn, nhưng đã cùng sư đoàn 338 tổ chức phản kích đánh vào
quân Trung Quốc rút lui qua ngả Chi Mã.
Ngày 16 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố hoàn tất việc rút quân khỏi Việt Nam.
Việt Nam phản kích
Phía Việt Nam cũng phản kích đánh vào hai thành phố biên giới của Trung Quốc là Malipo và Ninh Minh.
Diễn biến liên quan
Chiến dịch dân vận của Trung Quốc
Theo truyền thống, Trung Quốc đề cao việc tuyên truyền chính trị cho
binh sỹ và dân chúng của mình về chính nghĩa của họ trong việc cần thiết
tiến hành cuộc chiến trừng phạt Việt Nam. Ngay từ trước khi quân Trung
Quốc vượt biên giới đánh vào Việt Nam, cả hai bên đã lớn tiếng cáo buộc
nhau có các hành vi gây hấn trên tuyến biên giới. Theo phía Trung Quốc,
quân Việt Nam đã tiến hành hơn 1100 vụ xâm nhập trên biên giới. Đối lại,
Việt Nam cho biết việc quân Trung Quốc tiến hành khiêu khích diễn ra
hàng ngày. Cùng với việc quan hệ chính trị trở nên căng thẳng, số vụ xung đột vũ
trang tại biên giới cũng tăng lên, từ khoảng 100 vụ năm 1974 lên tới hơn
900 vụ năm 1976. Việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa
năm 1974 cũng như việc Việt Nam đưa quân tiếp quản Trường Sa cũng góp
phần khiến nguyên nhân bất đồng giữa hai phía trở nên sâu sắc.
Trung Quốc tuyên truyền trong nhân dân rằng đây là cuộc chiến phản
công chống Việt Nam để bảo vệ lãnh thổ quốc gia; tuyên truyền với quân
đội rằng chiến dịch quân sự này được tiến hành để trừng phạt nhà cầm
quyền Việt Nam, cụ thể là "bè lũ Lê Duẩn", và rằng quân đội cần giành
được sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam.
Chiến dịch vận động quần chúng của Trung Quốc tỏ ra có kết quả với dân
chúng và cán bộ Trung Quốc tại vùng biên, khiến họ có thể huy động hàng
chục vạn dân công tham gia các hoạt động bảo đảm an ninh và tiếp tế cho
quân đội. Hiện tại sau 34 năm vẫn có tới trên 90% người dân Trung Quốc
quan niệm rằng, năm 1979 Quân đội Nhân dân Việt Nam đã vượt biên giới
sang tấn công Trung Quốc và bắt buộc Trung Quốc phải tự vệ đánh trả,
cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của Việt Nam
Đối với dân thường Việt Nam, Trung Quốc bỏ ra nhiều công sức tuyên
truyền lôi kéo người dân vùng biên, đặc biệt là với các dân tộc thiểu số
sống vắt qua biên giới hai nước như Tày, Nùng (ở Trung Quốc gọi là dân tộc Choang), Dao, Hmong
và các nhóm người thiểu số gốc Hoa. Kết quả là trong ngày đầu của cuộc
chiến, có nơi, quân Trung Quốc đã được dẫn vòng qua đồn biên phòng tiến
sâu vào đất Việt Nam mà không bị phát hiện. Phục vụ công tác dân vận tại
các khu vực chiến sự, Trung Quốc còn thành lập các đơn vị đặc biệt mà
nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức cũng như kiểm tra hoạt động của các đội vận
động quần chúng trong tất cả các đơn vị quân. Theo đó, quân Trung Quốc
tiến sang Việt Nam phải giảm tối thiểu những hành động gây xáo trộn,
phiền hà đến dân chúng, tôn trọng phong tục tập quán, tài sản, cung cấp
gạo, muối, dầu thắp, thuốc chữa bệnh... cho dân cư bản địa. Chính sách
này được một số đơn vị Trung Quốc ở vùng Lào Cai thực hiện.
Tuy nhiên, quân Trung Quốc đã thực hiện nhiều hành động như giết
chóc, đốt phá, ngay cả sau khi đã tuyên bố rút quân. Hầu hết các thị xã
thị trấn mà Trung Quốc chiếm được đều bị phá hủy một cách có hệ thống.Tại thị xã Cao Bằng,
quân Trung Quốc dùng thuốc nổ phá sập bất cứ công trình gì từ công sở
đến bưu điện, từ bệnh viện đến trường học, từ chợ đến cầu. Tại Đồng Đăng,
quân Trung Quốc lấy đi tất cả những gì có thể mang theo, từ xe đạp cho
đến thanh ray tàu hỏa, những gì không mang được đều bị đập phá. Tại thị xã Cam Đường trên bờ sông Hồng, cách biên giới khoảng 10 km, ngoài việc phá hủy thị xã, quân Trung Quốc còn cho đốt cả mỏ apatit.
O'Dowd tổng kết là chính sách dân vận của quân Trung Quốc tỏ ra không
thành công đối với người dân Việt Nam. Ông lí giải rằng "người Việt Nam
rất yêu nước, thấm nhuần tư tưởng chính trị, giỏi chịu đựng, không dễ
bị lung lạc,...".
Ngoài ra, những hành động tàn phá, giết chóc dân thường, cũng như ngược
đãi tù binh của quân Trung Quốc đã gây hại cho nỗ lực dân vận của họ.
Những hoạt động này một phần là do binh lính Trung Quốc sang Việt Nam
bị sốc vì sự khốc liệt, sức kháng cự của quân Việt Nam cũng như của dân
bản địa, một phần nằm trong các phá hoại có kế hoạch và tổ chức, ví dụ như tại thị xã Lạng Sơn. Hoạt động lôi kéo người thiểu số tại biên giới của Trung Quốc cũng
không đạt được kết quả mong đợi. Khi quân Trung Quốc từ quân khu Vân Nam
rút về nước, tất cả những điệp viên và quân du kích người thiểu số mà
họ gây dựng được khi chiếm đóng các khu vực biên giới trong thời gian
chiến dịch đều bị lực lượng an ninh Việt Nam bắt giữ và xử tử.
Chiến tranh tâm lý của Trung Quốc với các lực lượng phòng thủ của
Việt Nam cũng thất bại. Trong suốt cuộc chiến, hiếm có đơn vị nào của
Việt Nam không đánh trả quyết liệt quân Trung Quốc. Quân Trung Quốc cuối
cùng cũng hiểu rằng ngoài việc sử dụng sức mạnh quân sự, họ không có hy
vọng giành thắng lợi trong chiến tranh tuyên truyền chính trị.
Chiến dịch hỗ trợ của Liên Xô cho Việt Nam
Vào năm 1979, trước việc Trung Quốc tấn công Việt Nam, Liên Xô đã
khẳng định kiên quyết: Quân đội và nhân dân Xô Viết sẵn sàng sử dụng các
giải pháp cuối cùng để thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình với Việt
Nam.
Từ ngày 12 đến 26/3, với mục đích tạo áp lực quân sự lên Trung Quốc,
theo quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô, trên
tất cả các quân khu vùng biên giới phía Đông, trên lãnh thổ Mông Cổ
và trên biển Thái bình dương tiến hành cuộc diễn tập hiệp đồng quân
binh chủng và diễn tập hải quân có sử dụng đạn thật. Trong cuộc diễn tập
lớn nhất lịch sử quân sự có sử dụng lực lượng của 20 sư đoàn
binh chủng hợp thành và không quân với 200 nghìn quân nhân, 2.600 xe
tăng, 900 máy bay và 80 chiến hạm. Kế hoạch diễn tập đã tiến hành tổ
chức các cụm chủ lực không quân công kích trên các quân khu gần biên
giới Trung Quốc.
Một bộ phận không quân đảm bảo vận tải trên lãnh thổ Việt Nam. Trong
không đầy một tháng, Liên Xô đã tiến hành cơ động 20 nghìn quân của Việt
Nam, hơn 1.000 đơn vị trang thiết bị chiến đấu, 20 máy bay quân sự và
máy bay trực thăng, hơn 3 nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn và cơ sở vật
chất phục vụ chiến tranh từ Campuchia trở về miền Bắc Việt Nam. Trong
giai đoạn đầu tiên của cuộc xung đột đến tháng 3/1979, theo đường vận
tải biển, Liên Xô đã chuyển đến Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe thiết giáp, xe bộ binh cơ giới, 400 khẩu pháo và súng cối, 50 tổ hợp pháo phản lực Grad BM-21, hơn 100 khẩu pháo phòng không, 400 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai và hàng nghìn tên lửa, 800 súng chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm kích.
Phản ứng quốc tế
Ngay khi cuộc chiến nổ ra, Hoa Kỳ tuyên bố giữ vị trí trung lập và
kêu gọi "sự rút quân lập tức của Việt Nam khỏi Campuchia và Trung Quốc
khỏi Việt Nam", nói rằng "việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam là sự tiếp nối của việc Việt Nam xâm lược Campuchia".
Nhưng theo đánh giá của Nayan Chanda, Hoa Kỳ đã là quốc gia phương Tây
duy nhất gần như ủng hộ cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc; trái với
lời lên án việc Việt Nam tiến đánh Khmer Đỏ là "một mối đe dọa cho hòa
bình và ổn định trong khu vực", tuyên bố của Mỹ về cuộc tấn công của
Trung Quốc có hàm ý bào chữa rằng "việc Trung Quốc thâm nhập biên giới
Việt Nam là kết quả của việc Việt Nam xâm lược Campuchia".
Ngoài Hoa Kỳ thì đa số các quốc gia phương Tây phản đối mạnh mẽ hành
động quân sự của phía Trung Quốc, sự cô lập này đã ảnh hưởng khá lớn tới
chính sách ngoại giao bước đầu mở cửa của Bắc Kinh khi đó.
Ngày 18 tháng 2, Chính phủ Liên Xô ra tuyên bố lên án Trung Quốc xâm lược Việt Nam: "Việc
Trung Quốc tiến công xâm lược Việt Nam chứng tỏ một lần nữa rằng, Bắc
Kinh có thái độ vô trách nhiệm biết nhường nào đối với vận mệnh của hoà
bình và Ban lãnh đạo Trung Quốc sử dụng vũ khí một cách tuỳ tiện, đầy
tội ác biết nhường nào!.. Những hành động xâm lược đó trái với những
nguyên tắc của Liên Hợp Quốc, chà đạp thô bạo luật pháp quốc tế, càng
vạch trần trước toàn thế giới thế giới thực chất chính sách bá quyền của
Bắc Kinh ở Đông Nam Á".
Liên Xô viện dẫn hiệp định ký với Việt Nam, thúc giục Trung Quốc "ngừng
trước khi quá muộn" và đòi Trung Quốc rút quân lập tức và toàn bộ.
Trong thời gian xảy ra cuộc chiến, Liên Xô
đã lên án cuộc tấn công của Trung Quốc là "hành động man rợ bất chấp
đạo lý của kẻ cướp", đòi Trung Quốc lập tức chấm dứt "cuộc chiến tranh
xâm lược", và cảnh báo Trung Quốc về lòng trung thành của Liên Xô đối
với Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Liên Xô - Việt Nam.
Ngoài ra, Liên Xô không có hành động can thiệp quân sự mà chỉ hỗ trợ
vận chuyển bằng hàng không, triển khai hải quân ngoài bờ biển Việt Nam và tăng cường gửi cố vấn và chuyên gia quân sự sang Việt Nam nhằm tránh đổ vỡ quan hệ vốn đã căng thẳng với Trung Quốc.
Liên Xô cũng cảnh báo Trung Quốc về việc đặt các lực lượng vũ trang Xô
Viết ở Siberi vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu số 1 đồng thời cung cấp
cho Việt Nam các thông tin quân sự thu được từ vệ tinh do thám. Bản thân
chính quyền Hà Nội, vốn giữ chiến thuật phòng thủ trong cuộc chiến,
cũng từ chối sự tham gia của các phi công Liên Xô vào các trận đánh. Do không tham gia về quân sự, ngày 10 tháng 3, Liên Xô hứa sẽ tăng viện trợ quân sự cho Việt Nam.
Đêm hôm Trung Quốc tuyên bố rút quân, Cuba cảnh báo Trung Quốc là nước này sẽ hỗ trợ Việt Nam, kể cả việc đưa quân đến nếu cần Sau khi biết tin Trung Quốc rút quân, nhật báo Pravda
của Liên Xô cũng đưa ra bình luận rằng "Liên Xô hiểu được dã tâm của
Bắc Kinh vì vậy đã không đáp lại những khiêu khích quân sự của Trung
Quốc với mục đích duy nhất là làm leo thang căng thẳng giữa Liên Xô và
Hoa Kỳ".
Tại Liên Hiệp Quốc,
tranh cãi kịch liệt xảy ra xung quanh vấn đề an ninh ở Đông Nam Á. Hai
sự kiện Việt Nam đánh vào Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ và Trung Quốc
đánh vào Việt Nam cùng được đưa ra bàn luận. Hội đồng Bảo An bị chia rẽ
sâu sắc sau các cuộc họp vào các ngày cuối tháng 2. Các nước ASEAN
muốn tất cả các lực lượng quân sự nước ngoài rút quân về nước. Mỹ ủng
hộ lập trường này. Liên Xô tuyên bố không ủng hộ bất cứ nghị quyết nào
không lên án Trung Quốc và đòi Trung Quốc rút quân. Ngày 23 tháng 2,
Liên Xô cùng Tiệp Khắc
đưa dự thảo nghị quyết trong đó lên án Trung Quốc xâm lược, đòi Trung
Quốc rút quân và bồi thường chiến tranh cho Việt Nam, và kêu gọi cấm vận
vũ khí đối với Trung Quốc. Còn Trung Quốc thì chỉ trích Liên Xô "khuyến
khích Việt Nam tấn công Trung Quốc và xâm lược Campuchia". Ngày 24
tháng 2, Trung Quốc đưa dự thảo nghị quyết đòi Việt Nam "lập tức rút
quân hoàn toàn khỏi Campuchia". Cuối cùng, Liên Hợp Quốc không đi đến
được một nghị quyết nào.
Lên án Trung Quốc, hỗ trợ Việt Nam:
- Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức, Tiệp Khắc, Hungary, Bulgaria, Albania, Mông Cổ,
Afghanistan, Ethiopia, Angola, Mozambique, Cộng hòa Nhân dân Campuchia và các quốc gia vệ tinh của Liên Xô
Lấy làm tiếc và yêu cầu Trung Quốc rút quân:
- Lào, Miến Điện, Ấn Độ
Phản đối hành động quân sự của Việt Nam và Trung Quốc:
- Thụy Điển, Canada, New Zealand
Yêu cầu Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia:
- Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines、 Iraq, Bắc Yemen、
Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy, Anh, Hà Lan, Italy, Nam Tư, Romania, Hoa Kỳ,
Australia
Lấy làm tiếc với Việt Nam và Trung Quốc, hy vọng Việt Nam và Campuchia có thể được tự quyết định vận mệnh của mình:
- Tây Đức, Áo, Thụy Sĩ, Bỉ, Luxembourg, Pháp, Tây Ban Nha, Hy Lạp
Kêu gọi thương lượng:
- Bangladesh, Síp, Iceland, Ireland, Ai Cập, Libya, Mali, Madagascar
Không tuyên bố công khai:
- Bồ Đào Nha
Hỗ trợ Trung Quốc:
Kết quả cuộc chiến
Tuy Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến
nhưng cả hai bên đều phải chịu thiệt hại nặng nề về người và của.
Cuộc chiến đặc biệt để lại nhiều tác hại lớn cho phía Việt Nam. Ngoài
các thương vong về con người, tổn thất cụ thể về cơ sở vật chất hạ tầng ở
6 tỉnh biên giới bị phá hủy do trận chiến, Việt Nam còn phải gánh chịu
nhiều khó khăn, thiệt hại do thái độ và chính sách thù địch, vây hãm mà
Trung Quốc và đồng minh của Trung Quốc gây ra trên các mặt trận quân sự,
kinh tế, ngoại giao,...
Thương vong và thiệt hại
Theo tướng Ngũ Tu Quyền (伍修权), phó tổng tư lệnh Quân giải phóng Trung
Quốc, số quân Việt Nam bị chết và bị thương là 50.000, trong khi con số
tương ứng của Trung Quốc là 20.000.
Theo nhà sử học Gilles Férier thì có khoảng 25.000 lính Trung Quốc
thiệt mạng và gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy, con số này phía
Việt Nam cũng là gần tương tự nhưng thấp hơn một chút. Russell D. Howard cho rằng quân Trung Quốc thương vong 60.000 người, trong đó số chết là 26.000, một số nguồn khác cũng đồng ý với con số thương vong ít nhất khoảng 50.000 của phía Trung Quốc. Nguồn của King Chen nói rằng riêng tại các bệnh viện lớn ở Quảng Tây đã có ít nhất 30.000 thương binh Trung Quốc. Tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, theo tạp chí Time thì có khoảng dưới 10.000 lính Việt Nam thiệt mạng (con số này phía Trung Quốc là trên 20.000). Phía Trung Quốc bắt được khoảng 1.600 tù binh trong tổng số hơn 50.000
quân Việt Nam tham chiến tại mặt trận Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.
Theo tuyên bố của Việt Nam, kết quả chiến đấu của họ như sau:
- Mặt trận Lạng Sơn: diệt 19.000 lính TQ, phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp và 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo-cối và giàn phóng hoả tiễn, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn (có hơi khác biệt so với kí sự Sư đoàn Sao Vàng).
- Mặt trận Cao Bằng: diệt 18.000 lính TQ, phá hủy 134 xe tăng, thiết giáp và 23 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn.
- Mặt trận Hoàng Liên Sơn (Lào Cai): diệt 11.500 lính TQ, phá hủy 66 xe tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn.
- Mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên: diệt 14.000 lính TQ, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn.
Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt
Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn
toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41
nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa
màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương
tiện sinh sống. Để được Liên Xô tăng cường viện trợ, từ 27 tháng 3 năm 1979, Việt Nam quyết định cho tàu quân sự Liên Xô đóng ở cảng Cam Ranh. Về phía bắc Kinh, cuộc chiến ngắn ngày đã tiêu tốn của nước này khoảng
1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng lớn tới quá trình cải tổ kinh tế.
Về lâu dài, nó mở đầu cho hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung
đột vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia, buộc Việt Nam phải thường
xuyên duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả
xấu đến nền kinh tế. Sinh hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới
bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra, nhiều cột mốc biên giới cũng bị
quân Trung Quốc phá hủy, gây khó khăn cho việc hoạch định biên giới sau
này.
Đánh giá
Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng.
Phía Trung Quốc: Đặng Tiểu Bình
khẳng định mặc dù có nhiều thất bại về quân sự nhưng Trung Quốc "đã đạt
được chiến thắng về chính trị và chiến thắng chung cuộc". Ông còn khẳng
định quân Trung Quốc "đã có thể tiến thẳng tới Hà Nội nếu muốn". Quan
điểm ít phổ biến hơn là của Trần Vân (Phó Thủ tướng, một trong 5 nhân vật quan trọng nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Chu Đức) rằng việc chiếm được Hà Nội
không phục vụ được mục đích gì, cuộc chiến sẽ có chi phí nặng nề quá
sức chịu đựng nếu kéo dài thêm 6 tháng nữa, và vì lý do tài chính không
nên lặp lại một cuộc chiến không phân thắng bại như vậy.
H. Kissinger đánh giá về cuộc chiến tranh này: "Yếu tố ý thức hệ
đã biến mất khỏi xung đột. Các trung tâm quyền lực của cộng sản cuối
cùng đã tiến hành chiến tranh giành thế cân bằng quyền lực không phải
căn cứ vào ý thức hệ mà hoàn toàn xuất phát từ lợi ích dân tộc".
Theo đánh giá của tác giả King C. Chen, quân Trung Quốc có lẽ đã đạt được 50-55% các mục tiêu có giới hạn của mình.Bên cạnh thành công trong việc bám theo được khá sát các kế hoạch tiến quân và rút quân, quân Trung Quốc đã không đạt được kết quả như các mục tiêu đã công bố:
họ đã không tiêu diệt được sư đoàn nào của Việt Nam; không chấm dứt được
xung đột có vũ trang tại vùng biên giới; không buộc được Việt Nam rút
quân khỏi Campuchia; không gây được ảnh hưởng lên chính phủ Việt Nam trong vấn đề Hoa kiều. Điểm yếu của quân Trung Quốc là vũ khí và phương tiện lạc hậu. Ngoài ra, họ đánh giá thấp sức mạnh quân sự của Việt Nam. Sự thiếu kinh nghiệm chiến đấu và tinh thần kém cũng nằm trong các điểm yếu của quân Trung Quốc.
Về quân sự, tác giả Edward C. O'Dowd đánh giá rằng quân Trung Quốc đã thể hiện trình độ chiến đấu kém trong
cuộc chiến. Tại Lạng Sơn, 2 quân đoàn Trung Quốc đã bị một trung đoàn
Việt Nam cầm chân trong 1 tuần, một quân đoàn khác cần 10 ngày để lấy
Lào Cai và Cam Đường - hai đô thị cách biên giới không đến 15 km. Trung
Quốc chiếm Cao Bằng vất vả đến mức cần ít nhất 2 quân đoàn để tiếp tục
tấn công một thị xã mà Trung Quốc tuyên bố đã chiếm được. Tại Quảng
Ninh, một trung đội Việt Nam đã cầm chân 5 tiếng đồng hồ một trung đoàn
Trung Quốc đang trên đường chiếm núi Cao Ba Lanh
giáp biên giới, gây thương vong cho 360 trong quân số 2800 của trung
đoàn này. Những tổn thất nhân mạng như vậy lặp lại trên toàn mặt trận và
đem lại ít hiệu quả. Quân Trung Quốc đã không sử dụng được số quân đông
một cách hiệu quả bằng các chiến thuật thích hợp và do đó không thể đạt
được tốc độ hành binh như mong muốn của chiến lược "đánh nhanh thắng
nhanh" (速战速决 tốc chiến tốc quyết). Đây là hậu quả của sự lạc hậu
về chiến thuật tác chiến của quân đội Trung Quốc vốn gần như không được
cải thiện kể từ sau chiến thuật biển người ở chiến tranh Triều Tiên những năm 1950. Thất bại về mặt chiến thuật đã buộc Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa quân đội nước này.
Trên phương diện quan hệ quốc tế, cuộc chiến Việt-Trung cho thấy rằng
Trung Quốc, với sự ủng hộ từ phía Hoa Kỳ, sẵn sàng can thiệp quân sự
vào Việt Nam - một quốc gia cộng sản từng là đồng minh trong nhiều năm,
kết quả chiến tranh cũng cho thấy Việt Nam đủ sức chống lại sự can thiệp
quân sự đó mà không phải điều động quân chủ lực từ biên giới Tây Nam và
miền Nam Việt Nam. Những sự kiện từ cuộc chiến cho thấy mối quan hệ
ngoại giao phức tạp Liên Xô - Trung Quốc - Việt Nam
với kết quả là Trung Quốc không thể tung toàn bộ lực lượng vào cuộc
chiến nhằm "dạy cho Việt Nam một bài học" vì chịu sức ép từ phía Liên
Xô, đồng thời Liên Xô cũng không sẵn sàng tung quân đội vào tham chiến
bảo vệ đồng minh mà chỉ tập trung viện trợ kinh tế, quân sự. Điều này đã
khiến cho rất nhiều người Việt Nam sau đó nghi ngờ về đồng minh Liên Xô
cũng như đối với Liên Xô thật sự là một sự thất bại về uy tín.
Kết quả cuộc chiến cũng cho thấy Trung Quốc bất lực trong việc hỗ trợ
đồng minh Khmer Đỏ trong cuộc chiến với Việt Nam và thất bại trong việc
điều chỉnh quan hệ ngoại giao để tăng cường ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam
Á.
Nhiều quan điểm khác cho rằng Trung Quốc đã thất bại về quân sự nhưng
lại đạt được một số thành công về chiến lược, trong đó có việc chứng tỏ
cho các nước Đông Nam Á rằng họ sẵn sàng dùng vũ lực nếu vị thế và uy
lực của mình bị thách thức.
Hậu chiến
Khi quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam tháng 3 năm 1979, Trung Quốc
tuyên bố họ không tham vọng dù "chỉ một tấc đất lãnh thổ Việt Nam". Trên thực tế, quân Trung Quốc chiếm đóng khoảng 60 km2 lãnh thổ có tranh chấp mà Việt Nam kiểm soát trước khi chiến sự nổ ra. Tại một số nơi như khu vực quanh Hữu Nghị Quan gần Lạng Sơn,
quân Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ không có giá trị quân sự nhưng
có giá trị biểu tượng quan trọng. Tại các nơi khác, quân Trung Quốc
chiếm giữ các vị trí chiến lược quân sự làm bàn đạp để từ đó có thể tiến
đánh Việt Nam.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam và Trung Quốc nối lại đàm phán
về vấn đề biên giới. Cuộc đàm phán Việt – Trung lần ba diễn ra vào năm
1979 với hai vòng đàm phán. Trong vòng đàm phán thứ nhất phía Việt Nam
cho rằng, trước hết cần vãn hồi hòa bình, tạo không khí thuận lợi để
giải quyết những vấn đề khác. Đoàn Việt Nam đưa ra phương án ba điểm để
giải quyết vấn đề biên giới: chấm dứt chiến sự, phi quân sự hóa biên
giới; khôi phục giao thông, vận tải bình thường trên "cơ sở tôn trọng
đường biên giới lịch sử mà các Hiệp định Trung - Pháp năm 1887 và 1895
đã thiết lập". Phía Trung Quốc kiên quyết từ chối những đề nghị của Việt
Nam, đưa ra đề nghị tám điểm của mình, bác bỏ việc phi quân sự hóa biên
giới, đề nghị giải quyết các vấn đề lãnh thổ trên "cơ sở những công ước
Trung - Pháp" chứ không phải trên cơ sở đường ranh giới thực tế do các
Hiệp định đó đưa lại. Trung Quốc cũng đòi Việt Nam thừa nhận các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa là "một bộ phận không thể tách rời của lãnh
thổ Trung Quốc"; Việt Nam phải rút quân ra khỏi Trường Sa, thay đổi
chính sách với Lào và Campuchia, giải quyết vấn đề Campuchia. Trung Quốc
cũng yêu cầu Việt Nam nhận lại những người Hoa đã ra đi. Trong quan hệ
với các nước khác: "Không bên nào sẽ tham gia bất cứ khối quân sự nào
chống bên kia, cung cấp căn cứ quân sự hoặc dùng lãnh thổ và các căn cứ
các nước khác chống lại phía bên kia"; "Việt Nam không tìm kiếm bá quyền
ở Đông Dương hay ở bất cứ nơi nào" làm điều kiện để tiến hành thương
lượng.
Vòng đàm phán thứ hai được tổ chức tại Bắc Kinh từ ngày 8/6/1979.
Đoàn đại biểu Việt Nam đề nghị hai bên cam kết không tiến hành các hoạt
động thám báo và trinh sát dưới mọi hình thức trên lãnh thổ của nhau;
không tiến hành bất cứ hoạt động tiến công, khiêu khích vũ trang nào,
không nổ súng từ lãnh thổ bên này sang bên kia, cả trên bộ, trên không,
trên biển; không có bất cứ hành động gì uy hiếp an ninh của nhau. Việt
Nam cũng đưa ra những quan điểm của mình về "chống bá quyền" với ba nội
dung chính: Không bành trướng lãnh thổ dưới bất cứ hình thức nào, chấm
dứt ngay việc chiếm đoạt đất đai của nước kia, không xâm lược, không
dùng vũ lực để "trừng phạt" hoặc để "dạy bài học"; không can thiệp vào
quan hệ của một nước với nước khác, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nước khác, không áp đặt tư tưởng, quan điểm, đường lối của mình cho
nước khác; không liên minh với các thế lực phản động khác chống lại hòa
bình, độc lập dân tộc. Trong vòng đàm phán này, Trung Quốc chủ yếu chỉ
trích Việt Nam về việc "buộc" Trung Quốc phải thực hiện "chiến tranh tự
vệ", đề cập đến một số vấn đề liên quan đến quan hệ hai nước và lập
trường tại khu vực, không tập trung giải quyết thực chất vấn đề biên
giới. Đầu năm 1980, Trung Quốc đơn phương đình chỉ vòng ba, không nối
lại đàm phán. Việt Nam liên tiếp gửi công hàm yêu cầu họp tiếp vòng ba,
nhưng Trung Quốc làm ngơ. Trong những năm 1979-1982, Việt Nam nhiều lần
đề nghị nối lại các cuộc đàm phán đã bị Trung Quốc đơn phương bỏ dở,
nhưng Trung Quốc vẫn một mực khước từ.
Từ tháng 3/1979 đến hết tháng 9/1983, Trung Quốc đã cho lực lượng vũ
trang xâm nhập biên giới Việt Nam 48.974 vụ, trong đó xâm nhập biên giới
trên bộ 7.322 vụ có nổ súng, khiêu khích; xâm nhập vùng biển 28.967 vụ;
xâm nhập vùng trời biên giới 12.705 vụ (với hơn 2.000 tốp máy bay).
Trung Quốc bắn pháo thường xuyên vào các vùng dân cư, tiếp tục lấn
chiếm đất đai, xâm canh, xâm cư, di chuyển, đập phá cột mốc, dựng bia,
chôn mộ trong đất Việt Nam. Tính đến tháng 3/1983, Trung Quốc còn chiếm
giữ 89 điểm của Việt Nam.Việc Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ biên giới làm cho Việt Nam căm
giận, và giữa hai phía nổ ra một loạt trận giao tranh nhằm giành quyền
kiểm soát các khu vực đó. Xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc
vẫn tiếp diễn cho đến năm 1988, lên cao vào các năm 1984-1985. Trong tháng 5 - tháng 6 năm 1981, quân Trung Quốc mở cuộc tấn công vào
đồi 400 (mà Trung Quốc gọi là Pháp Tạp Sơn - 法卡山) ở huyện Cao Lộc, Lạng
Sơn,
xa hơn về phía tây, quân Trung Quốc cũng vượt biên giới đánh vào các vị
trí quanh đồi 1688 ở tỉnh Hà Tuyên. Giao tranh diễn ra hết sức đẫm máu
với hàng trăm người thuộc cả hai bên thiệt mạng.Ngày 1/2/1984, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang cùng
đoàn cán bộ cao cấp đã đến thăm cao điểm 400 (mà Trung Quốc đặt tên là
Pakhason) để động viên quân đội.
Tới năm 1984, quân Trung Quốc lại dùng nhiều tiểu đoàn mở các đợt tấn
công lớn vào Lạng Sơn. Đặc biệt tại Hà Tuyên, trong tháng 4 - tháng 7
năm 1984, quân Trung Quốc đánh vào dải đồi thuộc huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà
Giang mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn. Quân Trung Quốc chiếm một số ngọn
đồi thuộc dải đồi này, giao tranh kéo dài dằng dai, nhưng không có nơi
nào quân Trung Quốc tiến sâu được hơn vào lãnh thổ Việt Nam quá 5 km, dù
quân đông hơn nhiều.
Các nhà quan sát nước ngoài ghi nhận từ tháng 7/1980 đến tháng
8/1987, dọc biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã xảy ra 6 cuộc xung đột vũ
trang lớn vào các tháng 7/1980, tháng 5/1981, tháng 4/1983, tháng
6/1985, tháng 12/1986 và tháng 1/1987. Theo tuyên bố của Ngoại Trưởng
Trung Quốc Ngô Ngọc Khiêm trong buổi họp báo ở Singapore ngày 29/1/1985,
trong năm 1985, Trung Quốc đã điều thêm 8 sư đoàn bộ binh cùng gần 20
sư đoàn tại chỗ áp sát biên giới Việt – Trung; đồng thời, triển khai hơn
650 máy bay chiến đấu, ném bom các sân bay gần biên giới. Còn theo Báo
Nhật Bản Sankei Shimbun ra ngày 14/1/1985, Trung Quốc đã đưa số máy bay
đến gần biên giới Việt - Trung lên gần 1.000 chiếc. Đài BBC ngày
6/2/1985 cho biết: Trung Quốc có 400.000 quân đóng dọc biên giới Việt –
Trung. Tạp chí Nghiên cứu vấn đề quốc tế của Trung Quốc số 2/1982 lý giải mục đích của việc bố trí một lực lượng lớn quân đội ở sát biên giới với Việt Nam "là
để kìm giữ một phần binh lực của Việt Nam ở tuyến biên giới phía Bắc,
do đó làm lợi cho cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân Campuchia".
Trung Quốc cũng thường xuyên khiêu khích vũ trang, lấn chiếm, phá hoại
phòng tuyến bảo vệ biên giới, tung gián điệp, thám báo, biệt kích vào
nội địa, kích động các dân tộc thiểu số dọc biên giới Việt Trung ly
khai, xây dựng cơ sở vũ trang, gây phỉ. Từ cuối năm 1980, Trung Quốc hỗ
trợ Fulro và tàn quân Polpot, lập căn cứ ở Đông Bắc Campuchia, lập hành
lang Tây Nguyên- Campuchia –Thái Lan.
Trong các ngày 22/2/1980, 27/2/1980 và 2/3/1980 tại vùng biển Tây Nam
quần đảo Hoàng Sa, Hải quân Trung Quốc bắt giữ một số thuyền đánh cá
của ngư dân hai tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và Nghĩa Bình. Từ năm 1979 đến
năm 1982, diễn ra các sự kiện đáng chú ý như Tổng cục Hàng không Dân
dụng Trung Quốc công bố một thông cáo quy định "bốn vùng nguy hiểm" ở
Tây Nam đảo Hải Nam, trong đó có vùng trời của quần đảo Hoàng Sa và buộc
máy bay dân dụng của các nước khác phải bay qua đây vào những giờ do
Trung Quốc quy định; thành lập lữ đoàn Hải quân đầu tiên ở đảo Hải Nam
(12/1979); cho máy bay ném bom H-6 của Hải quân Trung Quốc thực hiện
cuộc tuần tra trên không đầu tiên ở quần đảo Trường Sa (1/1980); năm
1982, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Trung Quốc Dương Đắc Chí
viếng thăm quần đảo Hoàng Sa và tàu hải quân của Trung Quốc, Việt Nam đã
đụng độ ở ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 15/4/1987, Trung Quốc đã ra tuyên bố lên án quân đội Việt Nam
chiếm đóng đảo đá Ba Tiêu thuộc quần đảo Trường Sa. Trung Quốc cho rằng
mục đích của Việt Nam khi triển khai quân đội một cách bất hợp pháp ở
đảo Ba Tiêu là để chiếm hữu thềm lục địa gần đó và mở đường cho việc
khai thác dầu trong tương lai. Trung Quốc yêu cầu Việt Nam rút khỏi Ba
Tiêu và 9 hòn đảo khác, bảo lưu quyền thu hồi các đảo này vào một thời
điểm thích hợp. Từ ngày 15/5 đến ngày 6/6/1987, Hải quân Trung Quốc diễn
tập lớn và tổ chức các cuộc nghiên cứu hải dương học ở khu vực quần đảo
Trường Sa. Tháng 1/1988, một lực lượng lớn tàu chiến của Trung Quốc
hoạt động xâm chiếm tại bãi đá Chữ Thập và Châu Viên, xây nhà, cắm cờ
Trung Quốc trên hai đảo này. Ngày 26/2/1987, lực lượng của Trung Quốc đã
đổ bộ lên hai đảo san hô trong quần đảo Trường Sa. Ngày 14 tháng 3 năm
1988 xảy ra Hải chiến Trường Sa
giữ Việt Nam và Trung Quốc gần cụm đảo Sinh Tồn, khiến 3 tàu vận tải
của Việt Nam bị bắn chìm, 20 người chết và 74 người khác bị mất tích.
Trong năm 1988, Trung Quốc chiếm 6 điểm trên quần đảo Trường Sa, xây
dựng hệ thống nhà giàn. Tháng 5/1988, tờ Nhật báo Quân đội Nhân dân
thuộc quân đội Trung Quốc có bài viết, trong đó tuyên bố: Hiện nay Hải
quân Trung Quốc có thể bảo vệ lãnh hải gần bờ Trung Quốc, cả chủ quyền
trên quần đảo Trường Sa và biển khơi xa lục địa hàng trăm hải lý.
Các ngày 17 và 23, 26 tháng 3 năm 1988, Chính phủ Việt Nam đã liên
tục gửi công hàm phản đối đến Bắc Kinh, đề nghị Trung Quốc cử đại diện
đàm phán, thương lượng để giải quyết những bất đồng liên quan đến quần
đảo Trường Sa, cũng như những vấn đề tranh chấp khác về biên giới và
quần đảo Hoàng Sa; đề nghị hai bên không dùng vũ lực và tránh mọi đụng
độ để không làm tình hình xấu thêm. Việt Nam cũng thông báo cho Liên Hợp
Quốc về tình trạng tranh chấp giữa hai bên song phía Trung Quốc vẫn
tiếp tục chiếm giữ các nơi đã chiếm được và khước từ thương lượng, giữ
quan điểm về "chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với quần đảo
Nam Sa" (Trường Sa).
Ngày 13/4/1988, Quốc hội Trung Quốc khóa VI đã phê chuẩn thành lập
Khu hành chính Hải Nam, có địa giới hành chính rộng lớn trên biển Đông,
bao trùm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Tháng
4/1988, Trung Quốc đặt lại tên cho các đảo, đá, bãi cạn thuộc quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và sáp nhập hai quần đảo vào địa phận Hải Nam -
Trung Quốc. Từ tháng 1/1989 đến tháng 9/1990, Trung Quốc liên tục có các
hành động như: đặt bia chủ quyền trên các đảo đã chiếm được; tập trận,
khảo sát khoa học trong lãnh hải quần đảo Trường Sa.
Những năm 1982, 1983 và 1984, tại diễn đàn đàm phán bình thường hóa
quan hệ Xô – Trung ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao, Trung Quốc nêu vấn đề
quân đội Việt Nam ở Campuchia, đề nghị Liên Xô phải thúc đẩy Việt Nam
rút quân ra khỏi Campuchia, coi việc Liên Xô tiếp tục ủng hộ quân đội
Việt Nam tại Campuchia là trở ngại lớn nhất cho việc bình thường hóa
quan hệ Trung - Xô.
Cuộc chiến năm 1979 cho Trung Quốc thấy sự lạc hậu của vũ khí cũng
như chiến thuật mà quân đội nước này sử dụng, do đó, sau cuộc chiến là
bắt đầu của một cuộc cải cách và hiện đại hóa mạnh đối với Quân giải
phóng Trung Quốc, ngày nay công cuộc hiện đại hóa này vẫn tiếp tục. Ảnh hưởng trực tiếp có thể thấy là ngân sách dành cho quốc phòng của Trung Quốc tăng từ 15% năm 1978 lên 18% năm 1979.
Quan hệ xấu với Trung Quốc đã làm Việt Nam đã phải trả một cái giá rất đắt.
Việc Trung Quốc duy trì áp lực quân sự tại vùng biên giới trong suốt
mười năm sau đó buộc Việt Nam cũng phải duy trì lực lượng phòng thủ lớn ở
biên giới và miền Bắc. Cùng với việc bị sa lầy với chiến sự dai dẳng ở Campuchia mà Trung Quốc muốn kéo dài, Việt Nam bị cô lập trong mười năm đó trên trường quốc tế.
Nền kinh tế yếu kém và bị Mỹ cấm vận phải căng ra duy trì một lực lượng
quân đội lớn, và phải phụ thuộc vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Sau năm
1979, tình hình kinh tế miền Bắc Việt Nam tệ hại đi rất nhiều so với
thời kỳ trước đó. Trong khi đó, Trung Quốc phát triển mạnh từ năm 1978 do công cuộc cải tổ kinh tế của Đặng Tiểu Bình. 7 năm sau chiến tranh biên giới, Việt Nam bắt đầu thời kì Đổi Mới. Sau khi Liên Xô tan rã và Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, đến năm 1992 quan hệ giữa hai nước chính thức được bình thường hóa.
Từ khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước được cải thiện, cuộc chiến
hầu như không còn được nhắc đến trong các phương tiện truyền thông đại
chúng, không được nói đến trong sách giáo khoa lịch sử ở Trung Quốc
và một cách hạn chế tại sách giáo khoa của Việt Nam. Tại Trung Quốc,
các phương tiện truyền thông gần như lãng quên nó, các tuyển tập bài hát
không còn in các ca khúc nói về cuộc chiến, sách nghiên cứu viết về
cuộc chiến bị từ chối xuất bản, đa số cựu chiến binh từng tham gia cuộc
chiến không muốn nhắc đến nó. Ở Việt Nam, một số ca khúc có nội dung về cuộc chiến, ví dụ "Chiến đấu vì độc lập tự do" của Phạm Tuyên,
không còn được lưu hành trên các phương tiện truyền thông chính thống,
đó là theo một thỏa thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc nhằm bình thường
hóa hoàn toàn quan hệ giữa hai nước. Chính phủ Việt Nam để ý chặt chẽ các nội dung báo chí liên quan đến quan hệ Việt - Trung,
và báo chí hầu như không nhắc đến cuộc chiến. Theo giải thích của ông
Dương Danh Dy, cựu Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh,
thì Việt Nam "không nói lại chuyện cũ là vì nghĩa lớn, chứ không phải
vì chúng ta không có lý, không phải vì người Việt Nam sợ hãi hay chóng
quên"
Khi được hỏi về cuộc chiến từ 30 năm trước, phát ngôn nhân Bộ Ngoại
giao Trung Quốc nói rằng từ nhiều năm trước lãnh đạo hai nước đã "thỏa thuận gác lại quá khứ và mở ra tương lai". Năm 2014, nhân kỷ niệm 35 năm Chiến tranh biên giới Việt-Trung, nhiều báo tại Việt Nam có bài viết về đề tài này.
Năm 2009, 30 năm sau cuộc chiến, Việt Nam và Trung Quốc hoàn thành việc cắm 1971 mốc phân định biên giới sau khi hai chính phủ kí kết hiệp định biên giới, kết thúc đàm phán về các khu vực tranh chấp dọc biên giới.
Phản ánh trong văn nghệ
Việt Nam
Chiến tranh biên giới phía bắc năm 1979 đã được nhắc tới trong hai bộ phim Đất mẹ (1980) của đạo diễn Hải Ninh và Thị xã trong tầm tay (1982) của đạo diễn Đặng Nhật Minh. Với câu chuyện về chuyến đi của một phóng viên lên Lạng Sơn tìm người yêu trong thời gian chiến tranh biên giới nổ ra, Thị xã trong tầm tay - tác phẩm đầu tay của đạo diễn Đặng Nhật Minh đã giành giải Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 6, và nằm trong cụm tác phẩm của ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt III năm 2005. Năm 1982, một bộ phim tài liệu với tựa đề Hoa đưa hương nơi đất anh nằm
do Trường Thanh thực hiện để nói về một nhà báo người Nhật chết trong
thời gian đưa tin chiến tranh biên giới, bộ phim này sau đó đã được đánh
giá cao ở Nhật Bản.
Trong thời gian chiến tranh biên giới nổ ra và những năm sau đó, hàng
loạt bài hát Việt Nam về đề tài chiến tranh và bảo vệ tổ quốc cũng ra
đời như Chiến đấu vì độc lập tự do của nhạc sĩ Phạm Tuyên, Lời tạm biệt lúc lên đường của nhạc sĩ Vũ Trọng Hối, Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận của nhạc sĩ Hồng Đăng, Những đôi mắt mang hình viên đạn của nhạc sĩ Trần Tiến và Hát về anh của nhạc sĩ Thế Hiển. Về văn học có tiểu thuyết Đêm tháng Hai (1979) của Chu Lai và Chân dung người hàng xóm (1979) của Dương Thu Hương.
Tuy nhiên, sau đó khi quan hệ ngoại giao Trung Quốc - Việt Nam bình
thường trở lại, các tác phẩm trên thường không được phép lưu hành nữa.
Các chiến binh cũ cũng như truyền thông tại Việt Nam hầu như không còn
nhắc đến cuộc chiến này nữa, cũng không nhắc đến những người đã hy sinh
trong cuộc chiến này. Tuy thế, Ma chiến hữu, một tác phẩm đề cập đến lính Trung Quốc hy sinh trong cuộc chiến này của nhà văn Mạc Ngôn, do Trần Trung Hỷ dịch, lại được in và phát hành tại Việt Nam năm 2009 .
Xây đài tưởng niệm các liệt sĩ
Bà Phạm Thị Hải Chuyền, bộ trưởng Bộ Lao động - thương binh và xã
hội, trong một cuộc nói chuyện với báo Tuổi Trẻ đã tán đồng đề nghị của
các cựu chiến binh sư đoàn 356, qua kiến nghị đưa lên Chủ tịch nước, về
việc xây dựng một đài tưởng niệm vinh danh các chiến sĩ đã hi sinh trong
cuộc chiến chống Trung Quốc.